Top 9 # Xem Nhiều Nhất Vụ Kiện Bán Phá Giá Cá Basa Của Việt Nam Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Nhahangchacangon.com

Đương Đầu Với Kiện Chống Bán Phá Giá – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam

Những quy định cần biết

Bán phá giá là hiện tượng giá xuất khẩu của một sản phẩm từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của một sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo điều kiện thương mại thông thường. Về bản chất, bán phá giá trong thương mại quốc tế là hành vi phân biệt giá cả: đối với cùng một sản phẩm hoặc sản phẩm tương tự, nhưng giá xuất khẩu lại thấp hơn giá tiêu thụ nội địa. Đây được xem là một hành động nhằm chiếm lĩnh thị trường, tiến tới loại bỏ dần các đối thủ cạnh tranh.

Các doanh nghiệp cá tra Việt Nam muốn mở rộng thị trường cần phải chủ động đối phó với các vụ kiện CBPG – Ảnh: Huy Hùng

Mặc dù còn có nhiều quan điểm khác nhau, song pháp luật các nước đều coi đây là hành vi thương mại không lành mạnh. Đa số chính phủ các nước đều cho rằng, cần phải có hành động chống lại hành vi bán phá giá, nhằm bảo vệ sản xuất trong nước.

Hiệp định về CBPG của WTO ra đời và có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các nước thành viên. Hiệp định này quy định các biện pháp CBPG chỉ được thực hiện trong những hoàn cảnh nhất định và phải đáp ứng được 4 điều kiện: Thứ nhất, sản phẩm đang bán phá giá. Thứ hai, có thiệt hại vật chất do hành động bán phá giá gây ra hoặc đe dọa doanh nghiệp nội địa đang sản xuất sản phẩm tương tự sản phẩm bán phá giá, hoặc gây ra sự trì trệ đối với quá trình thành lập một ngành công nghiệp trong nước. Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa bán phá giá và thiệt hại vật chất (hoặc đe dọa gây thiệt hại vật chất) do chính hành động bán phá giá đó gây ra. Thứ tư, tác động của bán phá giá phải có tính bao trùm, ảnh hưởng tới cộng đồng rộng lớn.

Theo quy định của WTO, các quốc gia có quyền tự do trong việc xây dựng các thủ tục để xác định hiện tượng bán phá giá và áp dụng biện pháp CBPG đối với hàng hóa nhập khẩu vào nước mình, miễn là không mâu thuẫn với các hiệp định và quy định của WTO. Tình trạng này là nguyên nhân chủ yếu để nhiều nước áp dụng luật CBPG như là công cụ thực hiện chính sách bảo hộ thái quá thị trường nội địa.

Nguy cơ từ thị trường Mỹ

Từ năm 2002 đến nay, qua 6 lần xem xét hành chính hằng năm, cùng với nhiều nỗ lực đấu tranh của VASEP và các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, basa Việt Nam, mức thuế CBPG này đã dần giảm về 0 đối với phần lớn các doanh nghiệp bị đơn Việt Nam.

Tuy nhiên, niềm vui được hưởng thuế suất bằng 0 của các doanh nghiệp Việt Nam chưa được bao lâu, thì ngày 14/3/2013, DOC thông báo quyết định cuối cùng của đợt POR8 đối với cá tra fillet đông lạnh Việt Nam, giai đoạn  1/8/2010 – 31/7/2011. Theo đó, thuế suất đánh vào mặt hàng cá tra fillet đông lạnh của doanh nghiệp Việt Nam tăng cao đột ngột so với kỳ POR7, trái ngược mức thuế sơ bộ rất thấp hoặc bằng 0 được công bố ngày 12/9/2012.

Quyết định này của DOC khiến các doanh nghiệp Việt Nam không khỏi sững sờ, lo lắng. Các cơ quan chức năng cũng như doanh nghiệp Việt Nam khẳng định, sẽ khởi kiện và kiện đến cùng để giành lại công bằng cho cá tra Việt Nam. Tuy nhiên, “được vạ thì má đã sưng” là điều khó tránh khỏi, bởi để vụ kiện đi đến hồi kết, và dù thành công hay thất bại thì doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ phải tốn không ít thời gian, tiền bạc. Điều này đã được chứng minh trong vụ kiện CBPG cho cá tra lần đầu tiên.

Vì sao bị kiện?

Cá tra là một mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ngành thủy sản Việt Nam, hiện được xuất khẩu sang 142 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó thị trường Mỹ đóng vai trò rất quan trọng. Theo VASEP, năm 2012, giá trị xuất khẩu cá tra Việt Nam đạt 1,74 tỷ USD (tương đương năm 2011); trong đó kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ hơn 358 triệu USD, chiếm trên 20% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam.

Khi sản phẩm cá tra, basa Việt Nam tăng tốc vào Mỹ với giá hợp lý hơn, đã ảnh hưởng trực tiếp sản phẩm cá da trơn nuôi tại nước này. Thực tế, diện tích nuôi cá da trơn ở Mỹ chỉ trong năm 2012 đã giảm 1/2, từ khoảng 67.000 ha xuống còn hơn 33.000 ha. Những năm trước đây, người nuôi cá da trơn của Mỹ đã nhiều lần tìm cách ngăn cản doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường Mỹ; trong đó có cả việc ép các cơ quan chức năng Mỹ phải tạo hàng rào kỹ thuật, coi cá tra, basa Việt Nam không phải cá da trơn. Gần đây nhất, các doanh nghiệp Mỹ yêu cầu DOC lựa chọn một nước khác là Indonesia hoặc Philippines làm căn cứ tính giá và thuế, thay thế Bangladesh cho vụ kiện CBPG cá tra, cá basa vào Mỹ trong POR8. Đây thực chất là cách làm không minh bạch, nhằm tìm cớ ngăn cản sự thâm nhập của cá tra Việt Nam vào Mỹ, bảo hộ sản phẩm cá da trơn nội địa đang dần mất ưu thế tại Mỹ.

Trong quá trình điều tra CBPG đối với cá tra Việt Nam, Mỹ thường chọn nước thứ ba thay thế làm cơ sở so sánh các yếu tố chi phí đầu vào. Việc chọn nước thay thế nào có quan hệ rất lớn đến việc xem xét cá tra Việt Nam có bán phá giá hay không. Ở lần POR8 này, Mỹ đột ngột thay đổi từ Bangladesh sang chọn Indonesia (có nền công nghiệp sản xuất, chế biến cá tra khác xa Việt Nam) làm nước thứ ba thay thế, khiến cá tra Việt Nam bị coi là đã bán phá giá và phải chấp nhận mức thuế “trừng phạt” tăng 25 – 45 lần so với lần POR7, là điều hết sức vô lý. Tuy nhiên, để làm rõ được vấn đề, Việt Nam phải chấp nhận đứng đơn kiện lên Tòa án Thương mại Quốc tế. Thời gian theo đuổi vụ kiện chắc chắn lại kéo dài và đó là thách thức mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt, nếu không muốn mất thị trường quan trọng này.

Không tránh được thì đương đầu

Khủng hoảng kinh tế tạo cơ hội cho các sản phẩm giá thấp như thủy sản, dệt may, da giày, gạo… mở rộng thị trường; đồng thời cũng làm tăng xu hướng bảo hộ của các nước phát triển, trong đó có CBPG. Trên thực tế, Việt Nam chưa phải mục tiêu chính trong các vụ kiện bán phá giá lớn trên thế giới. Tuy nhiên, cùng với năng lực xuất khẩu ngày càng tăng và lợi thế cạnh tranh chủ yếu về giá, đồng nghĩa việc Việt Nam sẽ phải đối mặt ngày càng nhiều đối với các vụ kiện bán phá giá. Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam muốn kinh doanh, mở rộng thị trường xuất khẩu thì không có cách nào khác là phải chủ động phòng tránh và đối phó, thông qua tìm hiểu bản chất, thủ tục tiến hành, sử dụng các biện pháp ứng phó thích hợp khi có tình huống kiện tụng xảy ra.

Doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược đa dạng hóa sản phẩm và thị trường xuất khẩu – Ảnh: Trần Huy

Bài học đầu tiên nhìn từ vụ kiện CBPG đối với cá tra Việt Nam là, khi ưu thế cạnh tranh của các nhà sản xuất nội địa giảm sút, thị phần của họ bị suy giảm, họ có thể sử dụng mọi biện pháp có thể để ngăn cản hàng nhập khẩu. CBPG chỉ là một trong các biện pháp mà người sản xuất nội địa có thể sử dụng. Do đó, các nhà sản xuất nội địa Mỹ có nhiều cơ hội ngăn cản hàng ngoại nhập. Doanh nghiệp Việt Nam vì thế phải có chiến lược đa dạng hóa sản phẩm và thị trường xuất khẩu, nhằm phân tán rủi ro, bảo đảm hoạt động sản xuất, “không nên bỏ tất cả trứng vào một giỏ”. Không nên tập trung xuất khẩu một vài mặt hàng với khối lượng lớn vào một nước, vì đây có thể là cơ sở cho các nước khởi kiện bán phá giá.

Bên cạnh đó, để đối phó các vụ kiện CBPG thì sự minh bạch trong các tài liệu ghi chép, sổ sách kế toán là điều cần được đặc biệt chú ý. Qua hai vụ kiện tôm và cá tra, chúng ta rút ra kinh nghiệm về chứng từ, số liệu kế toán của nhiều doanh nghiệp chưa rõ ràng, minh bạch, làm cho cơ quan điều tra không chấp nhận những chi phí đó, dẫn đến khó khăn và bất lợi trong việc điều tra biên độ phá giá của doanh nghiệp.

Ông Nguyễn Duy Khiên, Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Mỹ (Bộ Công thương) từng chỉ ra nguyên nhân khiến doanh nghiệp nước ta thua kiện CBPG là do doanh nghiệp che giấu thông tin, tài liệu kế toán, lưu trữ số liệu không cụ thể rõ ràng. “Để chủ động đối phó các vụ kiện, trước hết doanh nghiệp cần kiểm tra tài liệu kế toán, số liệu lưu trữ rõ ràng, chính xác. Những thông tin về giá bán, số lượng bán, ngày tháng xuất bán, chi phí tàu biển, điều chỉnh giá là phần phải có số liệu rõ ràng nhất. Thông tin về các chi phí trong sản xuất, chi phí khác phải tách bạch…” – ông Khiên khuyến nghị.

Mỹ Áp Thuế Chống Bán Phá Giá Cá Tra Kỳ Ii: Việt Nam Có Cơ Sở Để Khởi Kiện?

Bộ Công Thương Việt Nam và các tổ chức Hiệp hội trong nước đã có ý kiến khẳng định mức thuế Mỹ áp dụng cho cá tra Việt tại POR 13 là không công bằng và bảo hộ cao quá mức. Việt Nam hoàn toàn có thể có những biện pháp để đề nghị phía Hoa Kỳ xem xét lại một cách thỏa đáng.

Căn cứ kết luận của Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) tại kỳ rà soát chính sách thương mại lần thứ 13 (POR 13), các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, basa của Việt Nam sẽ bị áp dụng mức thuế chống bán phá giá từ 2,39 USD/kg – 7,74 USD/kg.

Mức thuế “tiêu diệt đối thủ”

Với mức thuế “gấp đôi giá bán” như quyết định , các chuyên gia và doanh nghiệp đều nhận định doanh nghiệp xuất khẩu cá tra Việt Nam sẽ bị “cấm cửa” vào thị trường Mỹ, trừ hai doanh nghiệp Biển Đông và Vĩnh Hoàn vì có mức thuế thoả thuận. Cùng với đó, theo ông Dương Nghĩa Quốc – Chủ tịch Hiệp hội cá tra Việt Nam (VINAPA), việc Mỹ không sử dụng số liệu nước thứ 3 như Bangladesh, Indonesia mà dùng số liệu có sẵn (AFA) để tính mức áp thuế cho cá tra Việt Nam trong đợt POR 13 “là sự bảo hộ quá mức”.

“Điều này được khẳng định là chưa có tiền lệ. Thậm chí thể hiện sự áp đặt chủ quan, thiếu cơ sở của DOC. Cho thấy quyết tâm của Hiệp hội Cá nheo Mỹ là đình chỉ sản phẩm fille đông lạnh cá tra vào thị trường này” – ông Quốc nhấn mạnh. Nói như ông Trương Đình Hoè- Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP): “Quyết định áp đặt của DOC đi ngược lại tiến trình tự do thương mại, quyền lợi người tiêu dùng Mỹ, ảnh hưởng đến ngành cá tra, sinh kế của nông dân Việt Nam”.

TS Nguyễn Thị Hồng Minh, nguyên Thứ trưởng Bộ Thủy sản thậm chí còn đánh giá, mức thuế DOC áp lần này mang tính “tiêu diệt đối thủ” chứ không phải chống bán phá giá. Bởi theo tìm hiểu, nhiều doanh nghiệp nước ngoài bị Mỹ áp thuế chống bán phá giá quá cao đã phải bỏ thị trường.

Có cơ sở và có tiền lệ

Trao đổi với DĐDN, GS. TS Trần Việt Dũng – Trưởng khoa Luật quốc tế, Đại học Luật TP HCM, chuyên gia về bán phá giá khẳng định, Việt Nam có đủ cơ sở để khởi kiện Mỹ trong việc áp thuế chống bán phá giá cá tra quá mức lần này.

“Theo quy định tại Điều 2.4 tại Hiệp định về Chống bán phá giá, WTO yêu cầu so sánh phải đảm bảo công bằng. Tuy nhiên, hiện Mỹ đang sử dụng phương pháp “Quy về 0 – Zeroing” trong tính toán biên độ phá giá. Cùng với đó, Mỹ có thể thay đổi quốc gia cơ sở cho việc tính toán. Điều này khiến biên độ phá giá cao lên, mức thuế doanh nghiệp Việt Nam phải chịu vì vậy mà tăng cao”, Chuyên gia Dũng phân tích, đồng thời nhận định, Việt Nam có cơ sở để kiến nghị Mỹ xem xét thay đổi cách tính thuế, yêu cầu không áp dụng phương pháp “Quy về 0”.

GS.TS Trần Việt Dũng còn cho biết thêm, tiền lệ Việt Nam đã từng thắng trong vụ việc tương tự về tôm. DOC sau đó đã phải giảm mức thuế chống bán phá giá đối với tôm nước ấm đông lạnh của Việt Nam. “Không riêng với Việt Nam, ngay cả với tôm Thái Lan, Mỹ cũng đã nhiều lần thua kiện tương tự nhưng vẫn không bỏ cách tính thuế này” – ông Dũng nhấn mạnh.

Có cùng quan điểm, ông Bùi Huy Sơn, Tham tán Công sứ Thương mại, Trưởng cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ cho biết, tại lần công bố kết quả áp thuế cuối cùng của POR 9, Việt Nam cũng đã đề nghị phía Hoa Kỳ phải xem xét lại. Khi phía DOC không thể xem xét lại một cách thỏa đáng, Việt Nam đã khởi kiện lên Tòa án thương mại quốc tế Hoa Kỳ (CIT).

“Kể cả trong trường hợp phán quyết cuối cùng của tòa án (thường kéo dài 3-4 năm), mà vẫn không thỏa đáng, Việt Nam thậm chí có thể khởi kiện lên đến Tòa án thương mại liên bang. Do vậy, tôi có thể nói rằng, Việt Nam vẫn có cơ sở, có quyền và trên thực tế cũng đã từng áp dụng quyền của mình để đi đến cùng trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt Nam”, ông Sơn nhấn mạnh.

Nguồn: Báo Diễn đàn doanh nghiệp

Giá Trị Dinh Dưỡng Của Cá Tra, Cá Basa – Cá Da Trơn Việt Nam

Cá Tra và cá Basa của Việt Nam được nhiều thị trường ưa chuộng vì màu sắc cơ thịt trắng, thịt cá thơm ngon hơn so với các loài cá da trơn khác. Đây là một trong những đối tượng nuôi trồng thủy sản đang được phát triển với tốc độ nhanh tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Cần Thơ, Tiền Giang, Bến Tre…) và là một trong những loài cá có giá trị xuất khẩu cao.

Trong dinh dưỡng học người ta đã biết cá là một món ăn quý có nhiều protein, nhiều chất khoáng quan trọng và có gần đủ các loại vitamin, đặc biệt nhiều vitamin A và D trong gan cá và một số vitamin nhóm B. Hơn thế nữa, cá Tra, cá Basa là hai loài có giá trị dinh dưỡng cao vì thành phần dinh dưỡng chứa nhiều chất đạm, ít béo, nhiều EPA và DHA, ít cholesterol.

Lượng protein trong cá Tra, Basa vào khoảng 23% đến 28%, tương đối cao hơn các loài cá nước ngọt khác (16-17% tùy loại cá). Các protein của cá đều dễ tiêu hóa và dễ hấp thu hơn thịt. Quan trọng hơn nữa là thành phần các protein trong cá Tra, cá Basa vừa có chứa đầy đủ các acid amin cần thiết cho cơ thể lại vừa có tỷ lệ các acid amin thiết yếu (EAA) rất cân bằng và phù hợp với nhu cầu EAA của con người.

Về chất béo, hàm lượng chất béo trong cá Tra, cá Basa ít hơn so với thịt nhưng chất lượng mỡ cá lại tốt hơn. Các acid béo chưa no hoạt tính cao chiếm từ 50% đến 70% trong tổng số lipid bao gồm oleic, linoleic, linolenic, arachidonic, klupanodonic… Các acid béo này là vật chất quan trọng hỗ trợ cho nhiều cơ quan trong cơ thể như hệ thần kinh, hệ tuần hoàn. Nhiều nghiên cứu khoa học đã phát hiện rằng trong chất béo chưa bão hòa của cá Tra, cá Basa có chứa nhiều acid béo Omega_3 (EPA và DHA). Đây là các acid béo quan trọng mà cơ thể chúng ta không thể tự tổng hợp được nên bắt buộc phải được cung cấp từ thức ăn.

Chất DHA (Docosahexaenoic Acid) giữ vai trò quan trọng trong quá trình sinh trưởng của tế bào não và hệ thần kinh, có ảnh hưởng tới năng lực tìm tòi, phán đoán, tổng hợp của não. DHA được xem là không thể thiếu trong giai đoạn trẻ em đang phát triển, thanh niên hoặc những người lao động trí óc thường xuyên. Nếu cơ thể thiếu DHA, bộ não sẽ trì trệ, trí nhớ giảm sút, kém thông minh. Chất EPA (Eicosapentaenoic Acid) cũng có nhiều trong acid béo chưa bão hòa của cá và có tác dụng phòng chống bệnh xơ vữa động mạch và nhồi máu cơ tim. Như vậy, EPA rất cần thiết cho người cao tuổi cũng như người tiêu dùng trong độ tuổi lao động. Ngày nay, các nhà khoa học đã cho biết thêm hàm lượng Cholesterol trong cá Tra, Basa cực kỳ thấp, chỉ chiếm khoảng 0.02% thành phần thịt cá (cụ thể là xấp xỉ 22mg đến 25mg trên 100g cá thành phẩm ăn được).

Cá Tra

Tên tiếng Anh: Sutchi catfish Tên khoa học: Pangasius hypophthalmus (Sauvage, 1878) Tên thương mại: Tra catfish

Cá Basa

Tên tiếng Anh: Yellowtail catfish Tên khoa học: Pangasius bocourti (Sauvage, 1880) Tên thương mại: Basa catfish

Nam Pro

40 Năm Thăng Trầm Của Cá Tra, Basa Việt

Cá tra, basa đã được nông dân Đồng bằng sông Cửu Long nuôi từ khá lâu, nhưng suốt thời gian dài, nó chỉ là một loại thực phẩm bán tại các chợ quê. Cuối năm 1980, cá basa được một thương nhân chú ý và giới thiệu với đối tác nước ngoài, từ đó cá tra, basa đã từ ao làng vươn ra thị trường thế giới.

Năm 2018, xuất khẩu cá tra đạt kỷ lục 2,3 tỷ USD, tăng 26,4% so với năm 2017. Quý 1/2019, tổng giá trị xuất khẩu cá tra đạt 472,2 triệu USD, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước. Để có được kết quả này, ngành hàng cá tra đã trải qua bao thăng trầm.

Cuối thập niên 80, cá basa mới được một số doanh nhân kinh doanh thủy sản Việt Nam và Úc chú ý. Doanh nhân người Việt đầu tiên nhận thấy tiềm năng xuất khẩu cá basa là ông Nguyễn Thành Hưng (Mười Hưng), Giám đốc Xí nghiệp đông lạnh xuất khẩu I (nay là Công ty thực phẩm đông lạnh xuất khẩu Sài Gòn) ở Tp.HCM.

Xuất khẩu lô philê cá basa đầu tiên

Năm 1987, với sự hướng dẫn của Công ty Independent Seafood (Úc), Xí nghiệp đông lạnh xuất khẩu I bắt đầu tiến hành chế biến phi lê cá basa, và được được Công ty này đặt mua 2 tấn philê mang về Úc làm mẫu, giới thiệu và được người tiêu dùng Úc nhiệt tình đón nhận.

Nhờ vậy, Công ty Independent Seafood chính thức đặt mua những lô hàng phi lê cá basa tiếp theo và ông Mười Hưng đã ghi tên vào lịch sử ngành hàng này với tư cách là người đầu tiên đưa cá basa ra khỏi biên giới Việt Nam vào thị trường thế giới. Đó là tiền đề quan trọng để cá basa thay đổi thân phận, từ một sản phẩm chỉ quanh quẩn ở các chợ quê trở thành một sản phẩm xuất khẩu ra khắp thế giới như hôm nay.

Không dừng lại ở đó, ông Mười Hưng còn đi tiên phong trong việc tổ chức nuôi cá basa theo hướng hàng hóa lớn nhằm chủ động nguồn nguyên liệu. Năm 1988, ông liên kết với Công ty Mekong (An Giang) và đầu tư 300 lượng vàng để công ty này đóng 10 bè gỗ nuôi cá basa trên sông Hậu và cam kết bao tiêu toàn bộ sản lượng cá. Kể từ đó, nghề nuôi cá basa lồng bè ở Châu Đốc phát triển mạnh và nhanh chóng được nhân rộng ra các tỉnh lân cận, giúp hình thành ngành hàng cá basa, cùng với sự xuất hiện của những nhà máy mới chuyên chế biến xuất khẩu sản phẩm này.

Do cá basa dần khan hiếm con giống nên đầu những năm 1990, những người nuôi cá basa bắt đầu tính tới việc thay thế dần con cá này bằng cá tra. Nguyên nhân là do đầu tư bè cá rất tốn kém và cá basa lại không thể nuôi quá dày trong bè, nên chi phí sản xuất khá cao. Trong khi đó, cá tra tuy màu sắc thịt không trắng sáng như basa, nhưng lại ít mỡ, tỷ lệ thu hồi cao và có thể nuôi với mật độ cao.

Duyên cá basa nặng tình cá tra

Ông Nguyễn Minh Nhị (Bảy Nhị), nguyên Chủ tịch UBND tỉnh An Giang – người tâm huyết với ngành hàng này kể về con cá basa duyên nợ nặng tình.

Ông Bảy Nhị nhớ lại: “Tháng 10/2001, khi dự hội nghị Chính phủ tại Hà Nội, tôi phát biểu tình hình đánh tráo cá tra thành cá basa, làm cho cá basa không còn mấy người nuôi và ngoài tự nhiên nguồn thuỷ sản quý giá này đang cạn kiệt. Chỉ vì sự giống nhau về vóc dáng bên ngoài của chúng mà tôi gọi là “tình chị duyên em”, làm mất uy tính Việt Nam trên thương trường, tiêu diệt một loài cá là nguồn thực phẩm quý hiếm mà thiên nhiên ban tặng.

Khi tôi đang phát biểu thì Thủ tướng Phan Văn Khải ngắt lời và hỏi tôi: “Nó giống nhau như thế nào?”. Tôi ấp úng trả lời: “Nó giống nhau như… chị vợ với em vợ”. Tôi thật sự lỡ lời nên rất xin lỗi quý chị em! Mà thật tình, mối quan hệ giữa con người với tư cách cung – cầu trên thị trường với con cá basa ban đầu là “tình chị” đến năm 2000. Sau đó thì cá tra thay vào gần hết sản lượng xuất khẩu, rõ ràng không phải “duyên em” còn gì!? Nó như mối tình tay ba không công bằng nên không hạnh phúc”.

Năm 2003, trước khi về hưu, ông Bảy Nhị đã cho làm tượng đài cá basa ngay ngã ba sông Châu Đốc, nơi phát tích của nghề nuôi cá basa trong lồng bè. Trước đó, cá tra chỉ được nuôi trong ao hầm, giá trị thấp vì thịt màu vàng hoặc vàng chanh và chỉ tiêu thụ tại địa phương. Nhưng khi đưa vào nuôi ở các lồng bè, cá tra phát triển tốt, tỷ lệ cá đạt chất lượng thịt trắng tăng mạnh, lợi nhuận cao hơn tới 30 – 40% so với cá tra nuôi hầm. Một số nhà máy mạnh dạn thu mua cá tra chế biến xuất khẩu.

Do nuôi bè chi phí khá cao nên vào năm 1993, một số người nuôi bắt đầu thử nghiệm đào ao dọc theo bờ sông lợi dụng thủy triều lên xuống để điều chỉnh lượng nước ra vào ao. Nhờ đó, thịt cá giữ được màu trắng ổn định và cho năng suất cao hơn nuôi bè. Hình thức nuôi này đã nhanh chóng được nhân rộng và duy trì tới tận ngày hôm nay. Để nghề nuôi cá tra phát triển mạnh, trở thành một ngành hàng nông sản chủ lực ở Đồng bằng sông Cửu Long, còn có sự đóng góp không nhỏ của việc sinh sản nhân tạo thành công giống cá tra và sự xuất hiện các sản phẩm thức ăn công nghiệp dành cho cá tra.

Năm 1994, các nhà khoa học Pháp và Việt Nam đã cho sinh sản nhân tạo thành công giống cá tra tại Khoa thủy sản (Đại học Cần Thơ). Năm 1996, tổ chức CIRAD (Pháp) khởi động dự án cá da trơn châu Á với sự tham gia của 4 nước là Việt Nam, Indonesia, Pháp và Bỉ. Một năm sau, nhóm nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá basa thuộc dự án trên thử nghiệm trên cá tra để thử nghiệm các chỉ tiêu sinh sản giữa 2 loài cá.

Kết quả thu được vượt quá mong đợi khi cá tra có sức sinh sản gấp nhiều lần so với basa. Sau khi hoàn thiện, kỹ thuật sinh sản nhân tạo và ươm nuôi cá tra đã được chuyển giao cho người dân, tạo thành nghề sản xuất cá tra giống ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đây cũng là một đòn bẩy quan trọng cho việc phát triển mạnh nghề nuôi, sản lượng cá tra.

Khối lượng và kim ngạch xuất khẩu tăng từng năm

Năm 1997 – 1998 là giai đoạn cá tra bắt đầu chập chững tìm đường xuất khẩu. Năm 1997, cả nước mới chỉ xuất khẩu 425 tấn cá tra với tổng giá trị trên 1,65 triệu USD, chiếm tỷ lệ 0,2% tổng xuất khẩu thủy sản và bằng 0,6% tổng xuất khẩu sản phẩm tôm. Trong giai đoạn sơ khai này, giá cá tra xuất khẩu dao động 3,9 – 4,1 USD/kg.

Từ năm 2000 trở đi nghề nuôi cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long bắt đầu hình thành các vùng nuôi tập trung lớn ở các tỉnh: An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long… với tổng diện tích lên đến hơn 5.000 ha. Nếu năm 2001 sản lượng cả vùng đạt khoảng hơn 100 ngàn tấn thì năm 2009 đã trên 1 triệu tấn, với giá trị 1,4 tỷ USD. Dự kiến, năm 2019, kim ngạch xuất khẩu cá tra sẽ duy trì mức 2,3 tỷ USD, tăng 60,86%.

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam (Vasep), từ những bước đi tự phát của một số hộ nuôi nhỏ lẻ và những cơ sở sản xuất thô sơ, cá tra bắt đầu “lớn” lên thành ngành sản xuất quy mô công nghiệp. Năm 2002, đánh dấu bước phát triển ngoạn mục, khối lượng cá tra xuất khẩu đã tăng 6.580% và giá trị xuất khẩu tăng 5.253% so với năm 1997, số lượng thị trường cũng tăng 3 lần so với thời điểm ban đầu.

Bốn năm tiếp theo, từ khối lượng xuất khẩu ở mức ngàn tấn đã tăng lên con số hàng trăm ngàn tấn, với giá trị lên tới trăm triệu USD. Tuy nhiên, giá cá tra xuất khẩu trung bình lại giảm từ mức 3,11 – 3,15 USD xuống còn 2,5 – 2,75 USD/kg. Trong thời gian này, các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra tập trung mạnh sang thị trường Mỹ.

Sau nhiều năm xuất khẩu thuận lợi và vươn xa tới nhiều châu lục, cá tra Việt Nam phát triển quá “nóng” tại Mỹ và đe dọa sản xuất cá nội địa Mỹ. Lần đầu tiên, cá tra Việt Nam vấp phải rào cản lớn tại thị trường nhập khẩu hàng đầu Mỹ.

Cá tra trước rào cản thuế chống bán phá giá

Ngày 28/6/2002, Hiệp hội chủ trại nuôi cá da trơn Mỹ (CFA) đã đệ đơn kiện một số doanh nghiệp Việt Nam lên Bộ Thương mại Mỹ (DOC) và Ủy ban Thương mại quốc tế Mỹ (ITC) là các sản phẩm cá tra đông lạnh bán thấp hơn giá trị hợp lý tại thị trường Mỹ, gây thiệt hại cho sản xuất nội địa. Nguyên đơn trong vụ kiện là 500 trại nuôi cá catfish thuộc Hiệp hội Nuôi cá Catfish (CFA) và 8 doanh nghiệp chế biến thuỷ sản Mỹ. Bên bị đơn là 53 doanh nghiệp của Việt Nam.

Dự kiến, trong tháng 4/2019, DOC sẽ công bố kết quả cuối cùng mức thuế chống bán phá giá lần thứ 14 (POR4) cho sản phẩm cá tra nhập khẩu vào Mỹ giai đoạn từ ngày 1/8/2016 – 31/7/2017. Kết quả này dự báo sẽ có ảnh hưởng không nhỏ tới diễn biến xuất khẩu của cá tra trong thời gian tới.

Bất chấp những rào cản kỹ thuật và thương mại, xuất khẩu cá tra tiếp tục tăng trưởng. Năm 2008, lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu cá tra 1,45 tỷ US, khối lượng xuất khẩu đạt 640,8 ngàn tấn, giá xuất khẩu trung bình đạt 2,27 USD/kg. Giá cá tra trung bình giảm từ 2,75 USD xuống còn 2,15 – 2,25 USD/kg. Vào năm 2011, giá trị xuất khẩu cá tra đạt mốc 1,8 tỷ USD.

Từ năm 2012 đến nay, tổng giá trị xuất khẩu cá tra trung bình đã thấp hơn so với thời kỳ đỉnh cao (năm 2011) và đạt mức từ 1,56 – 1,78 tỷ USD. Nhưng rõ ràng, sau 20 năm xuất khẩu, cá tra Việt Nam đã có bước phát triển không ngừng và mang tầm vóc quốc tế.

Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nguyễn Xuân Cường, với mục tiêu kim ngạch xuất khẩu năm 2019 là 2,3 tỷ USD, tương đương năm 2018, bên cạnh ổn định, giữ vững thị trường Mỹ, Trung Quốc, các doanh nghiệp sẽ quan tâm đẩy mạnh xuất khẩu vào EU. Trong năm 2018, cá tra là một trong những năm điển hình hoàn thiện đã được Mỹ công nhận tương đương trong quá trình sản xuất. Cố gắng đổi mới quy trình công nghệ quản trị và chế biến, những phế liệu phải tận dụng thật tốt để làm cho giá thành của sản phẩm chính hạ nhưng chuỗi giá trị lại dài ra, đây là mục tiêu phấn đấu của chúng ta.

“Phải duy trì các thị trường truyền thống và mở rộng các thị trường mới nổi. Bên cạnh việc mở rộng thị trường đó phải hết sức chú ý đến thị trường 96 triệu dân trong nước và 15 triệu khách du lịch. Đây là một thị trường bền vững khổng lồ và người dân của chúng ta phải được quyền ăn thủy sản”, ông Cường nhấn mạnh.