Tư liệu sáng tác
Cá anh vũ (danh pháp hai phần: Semilabeo notabilis) là một loài cá thuộc họ Cá chép (Cyprinidae).
Cá có thân dày, thuôn dần về phía đuôi, có hai đôi râu. Thân cá có màu xám tro, bụng màu vàng nhạt. Miệng phía dưới, rạch ngang, có môi dưới rộng hình tam giác, với nhiều gai thịt tròn nổi. Cá anh vũ có kích thước trung bình, chiều dài toàn thân từ 31-67 cm, trọng lượng có thể lên đến 5 kg. Vây ngực (14 tia vây), vây bụng (8-9 tia vây), vây hậu môn (5 tia vây) có màu xám pha vàng. Vây lưng (8 tia vây), vây đuôi (?) có màu xám. Thành thục sinh dục sau 1-2 năm tuổi, mùa đẻ vào tháng 2-4[2], nhưng có tài liệu cho là từ tháng 10 năm trước tới tháng 3 năm sau[3]. Thức ăn của cá anh vũ chủ yếu là tảo lục, tảo khuê và các loại động vật không xương sống nhỏ sống dưới nước bằng cách dùng môi cạo thức ăn bám trên đá.
Nơi sinh sống của cá anh vũ là khu vực thượng lưu hệ thống sông Hồng, sông Kỳ Cùng và sông Lam (các tỉnh Yên Bái, Phú Thọ, Hòa Bình, Lạng Sơn, Nghệ An); tại Trung Quốc trong lưu vực sông Kim Sa (các tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam) cũng như sông Châu Giang (các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây); chủ yếu tại các vực sâu nước chảy, đáy có đá. Ổ đẻ ở các hang đá của đáy sông.
Cá Anh vũ – Từ huyền thoại đến hiện thực
Phàm sản vật tiến vua, tất có nhiều truyền thuyết ca tụng, nhiều huyền sử, nhưng với cá Anh vũ, truyền thuyết và huyền sử thì chẳng mấy ai dám nghi ngờ. Và huyền thoại về Anh vũ chưa bao giờ khiến người nghe phải thất vọng.
Đã có không biết bao nhiêu truyền thuyết kể về cá Anh vũ, loài cá tiến vua, một trong “ngũ quý hà thủy” trên khu vực ngã ba sông Bạch Hạc (Việt Trì – Phú Thọ). Người dân nơi đây khi được hỏi đã kể về loài cá này một cách rất tự hào – thứ đặc sản duy nhất của thành phố ngã ba sông.
Danh bất hư truyền
Tục truyền rằng, đời xưa ở biên giới tỉnh Hưng Hoá (Phú Thọ ngày nay), có một cây ngô đồng cao ngất trời, rễ cây ăn xuyên sang tận Trung Quốc. Vua Ngô bèn sai Lý Bạch sang tận nơi trấn áp. Cây đổ. Chỗ gốc cây sâu hoắm, thành cái hang, thông mãi sang tận cửa sông đất Trung Quốc, cá Anh vũ ở sông ấy theo đường đó sang nước Nam. Cứ mùa đông lạnh rét thì cá sang, mùa hạ lại về…
Còn theo sử sách thì cá Anh vũ đã có ở Việt Nam từ hai ngàn năm trước Công nguyên, tức là cách đây đã hơn bốn ngàn năm. Theo Đại Việt sử lược (thế kỷ 14), vào thời Hùng Vương thứ ba, hiệu là Hùng Quốc Vương, một ngư dân bắt được một con cá lạ ở sông Lô, mình vảy xanh óng ánh, bụng vẩy trắng, vây đỏ, miệng giống miệng lợn. Thấy lạ, người này liền đem tiến vua. Khi ăn, nhà vua thấy loại cá này thịt vừa ngọt vừa đậm, có vị thơm khác hẳn những loài cá khác, ăn xong thấy người khoan khoái, đầu óc minh mẫn hẳn lên như vừa ăn một thứ thuốc bổ. Nhà vua cho đây là một loài cá hiếm nên chỉ dụ dân chúng nếu bắt được cá này phải mang tiến vua. Cá Anh vũ nổi danh từ đó.
Trong suốt bốn nghìn năm lịch sử, cá Anh vũ đã khiến các nhà sử học, nhà văn, nhà thơ “hao tâm tổn trí” để ca tụng phẩm chất và tranh cãi về nguồn gốc cũng như nơi chốn sinh sống của chúng. Sách Đại Nam nhất thống chí có ghi: “Cá Anh vũ còn có tên là Giả Ngư, sinh sống ở ngã ba sông Bạch Hạc. Hàng năm, cứ đến mùa rét mới có. Vị cá rất ngon mà âm bổ. Từ sông Bạch Hạc trở xuôi thì không có nữa”. Ngay trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi cũng viết rằng: “Cá Anh vũ được dùng làm vật cúng tế thần linh…”. Sách Đại Việt sử ký toàn thư, Sơn Đường khảo tứ, Uyên Giám loại hàm… đều có nhắc đến cá Anh vũ. Đến nay, cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về loại cá này nhưng chưa ai khẳng định được nguồn gốc của nó. Tương truyền rằng, cá Anh vũ hoá rồng, nên khúc sông này đời xưa được gọi là Long Môn.
Ngon hơn bất cứ loài cá nào
Bóng dáng thứ đặc sản tiến vua này cũng thấp thoáng ở Sơn Tây, Cao Bằng, Lạng Sơn…, nhưng từ xưa đến nay, tất thảy đều nhất trí chỉ có cá ở ngã ba sông Việt Trì (nơi hội tụ của sông Lô, sông Thao, sông Đà) mới thực là ngon nhất.
Theo sách ẩm thực đời nhà Lê, trong cá Anh vũ ngon nhất là khối sụn môi. Môi cá phát triển như vậy là do chúng chỉ ăn loại rêu mọc trên đá ở lòng sông, chúng thường dùng môi để gặm, lúc ngủ cũng dùng môi để bám trụ vào đá, chống lại luồng nước chảy. Thịt cá Anh vũ trắng, chắc và thơm ngon, dân gian truyền rằng cá này tính mát, có thể chữa các bệnh nóng nhiệt, táo bón và bồi bổ thận, hoàn.
Theo cách chế biến món ăn cung đình xưa thì ngon nhất vẫn là cá hấp. Cá được rửa sạch rồi mổ và được ướp với gừng, muối và mắm, sau đó đặt lên trên một lớp lá gừng rồi đưa vào hấp chín. Đây là món mang lại dư vị đặc trưng của Anh vũ, vì hấp cá sẽ giữ được nguyên trạng và thơm ngon. Khi ăn thịt cá Anh vũ, người ta thường ăn với khế xanh, chuối xanh và bánh tráng mỏng và các loại rau như tía tô, dấp tanh, xương xông… Cũng có thể hấp cá Anh vũ mà không cần gia vị để giữ nguyên mùi thơm tự nhiên của cá…
Có truyền kỳ về vị tuần phủ đã 70 tuổi, hiếm muộn, một tuần dùng 2 cái môi cá chưng cách thủy với mật ong và hoa hồng bạch đã không những khỏi ho, khỏi suyễn mà còn… nhất dạ nhất giao sinh qúy tử (!) kiểu “lão bạng sinh châu”.
Lênh đênh đời ngư phủ
“Chài được con nào cũng thỏa công anh”. Đó là câu ca mà người dân Tây Bắc, Đông Bắc, thường cất cao những khi vượt ghềnh thác chài cá quý. Lên Phú Thọ, những ngày tháng ba giá buốt, ngồi nhâm nhi chén rượu với lão ngư đã mấy chục năm trời đi tìm con Anh vũ: Ngày trước, cả làng mưu sinh bằng nghề cá, nhưng giờ thì chẳng còn mấy ai. Cuộc sống thời mở cửa khiến cho tất cả những gì quý giá đều trở nên khan hiếm. Ngư phủ phải gác lưới, làm nghề khác kiếm sống qua ngày. Bắt cá Anh Vũ cơ cực lắm. Lặn phải đủ sâu, đeo kính lặn mà lưới quây phải là lưới chuyên dùng. Có người ham cá mà lặn đến ứa máu tai! Con cá hiếm nên cái cách sống của nó cũng oái oăm. Nước phải đủ sâu và trời phải đủ lạnh mới ra khỏi hang. Trước đây, những năm chín mươi (thế kỷ XX) còn có vài người chuyên săn Anh vũ, nhưng bây giờ không còn từ chuyên nữa, dân chài, dân lưới, dân lặn cứ trông chờ vào trời cho.
Cá Anh vũ chỉ có thể đánh bắt được từ độ đầu đông, từ tháng 10 đến tháng 3 dương lịch. Những ngày se lạnh, khi sương mù trải kín mặt sông, cá Anh vũ sẽ ra ăn nhiều hơn. Từ xưa đến nay chưa bao giờ nghe ai nói câu được cá Anh Vũ mà chỉ có bắt thủ công. Nay sức khỏe chả còn, kinh nghiệm nhiều năm cũng chẳng bằng lũ trẻ dùng những loại hủy diệt săn cá, khoảng vài ba năm nay hiếm hoi lắm mới thấy có người bắt được cá Anh vũ. Người mua trả rất nhiều tiền để mua cá Anh Vũ cũng chẳng có mà bán. Loài cá này giờ đắt nhưng quá hiếm…
Cá Anh vũ, tên Latin: Semilabeo notabilis thuộc họ cá chép Cyprinidae; bộ cá chép Cypriniformes, có 2 đôi râu. Râu lõm lớn hơn râu hàm. Miệng đưới. Môi trên rộng có nhiều u tròn nổi. Rãnh sau môi dưới không có. Mắt vừa phải. Khởi điểm của vây lưng ở trước khởi điểm của vây bụng. Vây lưng không có tia gai cứng. Vảy vừa phải, xếp đều đặn. Cá có thân màu xám tro, bụng màu vàng nhạt. Vây ngực, vây bụng, vây hậu môn có màu xám pha vàng. Vây lưng, vây đuôi có màu xám. Cá Anh vũ hiện nay được xếp vào Sách Đỏ Việt Nam. Cấm khai thác vào mùa cá đẻ từ tháng 10 đến tháng 12.
Nguồn: Thủy Sản Việt Nam
Huyền thoại cá Anh Vũ
Người dân Bạch Hạc, thành phố Việt Trì (Phú Thọ) thường kể về cá Anh Vũ, đặc sản nổi tiếng nhất của thành phố Ngã ba sông một cách rất tự hào. Những câu chuyện về loài cá huyền thoại này luôn được lưu truyền trong nhân dân hết thế hệ này qua thế hệ khác. Thế nhưng giờ đây, thậm chí ngay cả lớp trẻ ở làng vạn chài (viết thừa chữ làng) ven ngã ba sông, nhiều người cũng chẳng biết hình thù con cá ra sao, dài ngắn thế nào. Huyền thoại về cá Anh Vũ, vì thế mà càng thêm nổi tiếng.
Ngon hơn bất cứ loài cá nào
Tìm trong các tài liệu (chỉ trong tài liệu thôi, chứ người viết bài này cũng chưa có diễm phúc thử qua) thì các nhà ẩm thực học đều đánh giá thịt cá Anh Vũ rất cao: trắng, quánh và thơm ngon hơn bất cứ loài cá nào của sông nước. Trong con cá Anh Vũ, phần tuyệt nhất là cái khối sụn môi. Cái khối sụn này chẳng những rất giòn mà còn chữa được bệnh.
Dù có chế biến theo cách nào, thì cách ngon nhất vẫn là hấp cá. Khi bắt được, người ta thường mổ và rửa sạch cá, sau đó ướp gừng và một vài loại gia vị vào bụng, thêm chút nước mắm ngon. Cuối cùng cuốn cả con cá vào một tấm lá gừng và hấp cách thuỷ. Cá hấp sẽ giữ được nguyên các chất bổ và thơm ngon hơn bất cứ kiểu cách chế biến khác, bởi vậy, cũng là món được ưa thích hơn cả.
Thịt cá Anh Vũ thường được dùng kèm với chuối xanh, khế xanh, bánh đa tráng, rau mùi tàu, tía tô, diếp cá, xương xông… Chẳng thích ăn theo lối hấp cách thuỷ thì cũng có thể nướng chả, kho tộ, nấu mẻ giấm với khế xanh… Món nào cũng rất hấp dẫn. Thịt cá Anh Vũ thơm ngon và cực kỳ giàu đạm.
Loài cá tiến Vua
Vì loài cá này vừa thơm ngon lại vừa giàu chất dinh dưỡng nên từ xa xưa, nó đã được dùng làm thức tiến vua chúa. Trong sử sách Việt Nam, nhiều tài liệu có đề cập đến điều này. Sách Đại Nam Thống Nhất Chí có ghi: “Cá Anh Vũ còn có tên là Giả Ngư, sinh sống ở ngã ba sông Bạch Hạc. Hàng năm, cứ đến mùa rét mới có. Vị cá rất ngon mà âm bổ. Từ sông Bạch Hạc trở xuôi thì không có nữa”. Trong sách Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi cũng viết: “Cá Anh Vũ được dùng làm vật cúng tế thần linh …”.
Đi tìm hiểu thực hư về loài cá trứ danh này, tôi về làng chài Bạch Hạc ven sông Hồng, nơi giao cắt của ba con sông: sông Lô- sông Đà- sông Thao. Làng này chuyên sống bằng nghề đánh cá. Người ta nói: Cá Anh Vũ chỉ xuất hiện và đánh bắt được từ tháng 10 dương lịch đến tháng 3 năm sau, nhiều nhất là vào những ngày thời tiết se lạnh, nhiều sương mù. Lúc ấy cá Anh Vũ ra kiếm ăn nhiều hơn.
Cá Anh Vũ cũng sống theo bầy đàn nhưng kén nơi nước trong và có nhiều hang đá. Con cá trông dài và na ná như con trôi to nhưng bộ vảy thì óng ánh, sặc sỡ rất đẹp. Và cái đầu cá thì khác thường vô cùng, nó chẳng giống một cái đầu cá nào cả. Cái đầu ấy, cứ nhìn vào là người ta liên tưởng đến một cái đầu lợn con vì nó giống y hệt, nhất là cái môi cá bằng sụn rất to và dày như mõm lợn. Giống cá này ăn uống cũng rất khảnh chứ không ăn tạp như các loài cá sông khác.
Tai ác một điều, cá Anh Vũ chỉ ăn rêu tảo và sống ở nước trong, trong những hang đá sâu và khi nước lạnh mới mò ra tìm mồi. Vì vậy, việc bắt được một con Anh Vũ là cả một kỳ công.
Những người ở làng chài ven sông cho tôi hay: Ngày trước không ai gọi cá Anh Vũ bằng tên thật. Họ đều gọi là cá lợn, vì mõm cá giống mõm lợn như đúc. Phải nói tránh, vì đây là loài cá cao quý, chỉ dùng để tiến bề trên. Thậm chí, có cá đem bán cũng phải thậm thụt vì chính quyền sở tại không cho bắt cá tràn lan. Con cá Anh Vũ nếu có may mắn bắt được, cũng phải thả vào nước thật sạch và đem đi bán ngay, vì cá này rất dễ chết. Chỉ cần bắt lên bờ thả vào nước không sạch là vài ba tiếng sau cá đã lờ đờ ngửa bụng. Bởi tất cả những sự ấy, con cá lại càng trở nên quý giá. Ngày xưa, chỉ có vua chúa mới được dùng mà thôi.
Chuyện mưu sinh của một ngư phủ
Nhưng tất cả những câu chuyện trên giờ chỉ còn vang bóng. Hàng chục năm nay, người dân vùng ngã ba sông Việt Trì chẳng còn ai đánh bắt được cá Anh Vũ nữa. Buổi chiều ở làng chài Bạch Hạc, tôi đi tha thẩn bên sông, những người đánh cá vội vã trở về nhà trong ráng chiều đỏ rực. Nhắc tới câu chuyện về cá Anh Vũ, những người thâm niên trong nghề cá ở đây luôn kể một cách say sưa và cuốn hút. Ngày trước, cả làng mưu sinh bằng nghề cá, nhưng giờ thì chẳng còn mấy ai. Cuộc sống thời mở cửa khiến cho tất cả những gì quý giá đều trở nên khan hiếm. Ngư phủ phải gác lưới, nai lưng làm nghề khác kiếm sống qua ngày.
Ông Nguyễn Văn Hồng- một người đánh cá có tiếng trong vùng – nói chuyện với tôi suốt một buổi tối, bên ánh đèn le lói của những chiếc tàu hàng ven sông. Ngày xưa cá nhiều, ông là chủ lực kinh tế trong nhà, suốt ngày xoay trần kiếm cá. Lúc bấy giờ cá cũng sẵn. “Thế mà chẳng dễ gì bắt được cá Anh Vũ đâu chú mày ạ- ông Hồng bồi hồi- giống cá này ngoài rong tảo, nó chẳng ăn thứ gì khác. Bởi vậy việc câu cá là điều hoàn toàn không thể. Chỉ có cách duy nhất là bắt thủ công hoặc bằng tay, hoặc dùng chài lưới. Cá quý thật, nhưng bắt được nó có khi phải đánh đổi cả tính mạng”.
Nhà ông Hồng ở ngay mặt sông, ông là người nắm luồng lạch lòng sông như lòng bàn tay. Ông bảo, khúc sông này có một cái hang ngầm, dài dễ đến hơn trăm mét, ăn thông ngoắt ngoéo vào trong rồi lại ăn ra. Chưa một thợ lặn nào đủ sức khám phá cái hang ngầm bí hiểm này. Đây chính là tổ cá. Bắt cá Anh Vũ cực nhọc đủ đường. Một thợ lặn không những phải có sức khoẻ để đủ sức lặn sâu, mà còn phải có tài nghệ dùng lưới quây cá. Oái ăm là những hôm trời càng lạnh thì cơ may bắt được cá lại càng cao. Vì thế những tay ngư phủ phải cắn răng uống nước mắm nguyên chất mà lặn xuống, ngậm ống tiro, đeo kính lặn mà lần mò. Chuyện lặn sâu quá bị ứa máu tai máu mũi chẳng phải hiếm. Vất vả như thế, vậy mà may mắn bắt được con cá, ai cũng chỉ biết hân hoan ngửa mặt nhìn trời, coi như trời cho.
Ông Hồng lễ mễ mang ra một bộ chài lưới- mà theo ông là gia truyền từ thời các cụ. Tấm lưới được ông giặt trắng phau, coi như một báu vật. Trong làng ông, nhà ai cũng có một bộ lưới như thế, nhưng tất cả chỉ là hoài niệm. Con cá Anh Vũ nổi tiếng ngày nào, bây giờ chỉ còn trong câu chuyện kể. Bản thân ông cũng đổi nghề từ lâu. Khúc sông vẫn thế, mênh mông và khoáng đạt. Mùa lạnh, những lúc ban mai hay xế chiều, sương mù và hơi nước vẫn bảng lảng, khiến mặt sông trở nên đầy vẻ liêu trai. Chỉ có loài cá Anh Vũ là đi vào huyền thoại, mang theo không biết bao nhiêu câu chuyện kể, bao nhiêu câu hỏi còn bỏ ngỏ.
Tôi vẩn vơ suy nghĩ, chợt liên tưởng tới những quán cá bờ sông ở đây. Quán nào cũng chưng biển cá Anh Vũ lên rất to. Chẳng biết Anh Vũ đâu ra mà lắm thế. Thực hư lẫn lộn, nhưng cũng không khó giải thích. Trên đời này đã có mấy ai may mắn được nhìn (chỉ nhìn thôi) cá Anh Vũ, nói gì tới chuyện thưởng thức. Bởi vậy nếu có vào nhà hàng thuỷ sản, chủ hàng nói: “Đây là cá Anh Vũ!” thì đã chặc lưỡi cả mừng lắm rồi!
dantri.com.vn