Cập nhật nội dung chi tiết về Tiền Giang: Thoát Nghèo, Trở Nên Khấm Khá Nhờ Con Cá Dĩa – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam mới nhất trên website Nhahangchacangon.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Ông Nguyễn Văn Huế (khu phố 5, phường 5, TP. Mỹ Tho, Tiền Giang), có 10 năm nuôi cá dĩa cho biết: Hiện tại, việc xuất khẩu cá dĩa không còn sôi động như những năm trước đây, nhưng so với một số ngành nghề khác, nghề này có nhiều ưu thế như: không đòi hỏi mặt bằng rộng nên phù hợp với các hộ nuôi ở khu vực đô thị; người nuôi có thể tận dụng không gian trong nhà để nuôi và hiệu quả mang lại khá cao… nên thu hút nhiều người tham gia và gắn bó với nghề.
Hiện tại, trại cá dĩa của ông có 300 cặp cá bố mẹ được nuôi trong hồ kiếng, với 2 chủng loại chính là cá dĩa Bông và Côban (Lam lai Bông) và 1.000 con cá hậu bị được thả nuôi trong 30 hồ nhân tạo (xây tường trên nền đất tự nhiên: 4m x 4m x 0,5m) tại xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.
Mỗi tháng, ông xuất bán từ 6.000 – 7.000 cá bột với mức giá trung bình 3.000 đồng/con. Về cá hậu bị, sau 10-12 tháng tuổi, ông bán với giá từ 100.000 – 150.000 đồng/con; cá bố mẹ (mới sinh sản) 350.000 đồng/cặp.
Ông Nguyễn Văn Huế (trái) đang kiểm tra đàn cá dĩa hậu bị.
Để phòng bệnh cho cá (bệnh nấm, đường ruột), ông Huế lưu ý người nuôi nên giữ nhiệt độ nước trong ao ở mức trên dưới 30oC, tránh để dư thừa thức ăn làm ô nhiễm nguồn nước, cá dễ phát bệnh. Về thức ăn, đối với cá con, ông sử dụng Atemia (loại thức ăn dùng cho tôm) và trùn chỉ; đối với cá hương (3 tuần tuổi sau khi tách mẹ), cá hậu bị ông sử dụng tim bò, xay nhuyễn trộn với tảo Spirulina (hỗ trợ đường ruột) ép thành khối, cắt nhỏ rồi trữ lạnh dùng để cho cá ăn mỗi ngày.
Qua quá trình nuôi, ông nhận thấy, cá nuôi trong hồ kiếng thường cao dạo, màu sắc đẹp nên giá bán cao hơn so với nuôi trong hồ nhân tạo, nhưng bù lại phải tốn công chăm sóc nhiều hơn (kiểm tra nhiệt độ nước, máy cung cấp ôxy, thay nước…).
Anh Nguyễn Văn Linh (khu phố 8, phường 5, TP. Mỹ Tho) cho biết, trước đây anh chuyên đi vớt trùn chỉ, trứng nước để bán cho các hộ nuôi cá kiểng, cá bột giống. Sau đó, được sự hỗ trợ của ông Huế, anh làm thử một số hồ nhân tạo dạng tạm bợ (đắp đất, trải bạc nhựa) và bắt cá bột về nuôi thử.
Nhận thấy hiệu quả mang lại khá cao, anh tiếp tục mở rộng quy mô lên 21 hồ, trong đó có 10 hồ xây tường, 11 hồ tạm bợ. Cá bột nuôi trong 3 tháng đạt kích thước 6cm (từ đầu đến cậy đuôi), thương lái mua tại ao với giá 20.000 đồng/con.
Trừ tất cả chi phí, mỗi con cá thành phẩm xuất bán, anh thu lãi 10.000 đồng. Nhờ con cá dĩa, gia đình anh sớm thoát nghèo, trả hết nợ ngân hàng, nên anh có ý định sẽ tiếp tục mở rộng quy mô nuôi trong thời gian tới.
Cặp cá dĩa Bồ câu đang chăm sóc đàn con mới nở.
Còn chú Nguyễn Minh Hùng (Long An, Châu Thành) nuôi cá dĩa đã 5 năm. Chú cho biết, lúc đầu, thấy loại cá này đẹp, mua về nuôi thử làm kiểng, sau thấy cá tương đối dễ nuôi, hiệu quả nên chú làm thiệt. Trại cá của chú hiện có 120 hồ bằng kiếng, với 80 cặp bố mẹ và khoảng 1.500 cá bột, cá hương và cá hậu bị các loại.
Điểm đặc biệt ở trại cá của chú là từ cá bột đến cá bố mẹ hoàn toàn được nuôi trong hồ kiếng, với chủng loại rất đa dạng và tương đối cao cấp như: Bồ câu đỏ, Da beo, Zed (đỏ), Amino vàng, Amino bồ câu, Amino lam…
Ngoài ra, do nuôi trong hồ kiếng và sử dụng bí quyết trong quá trình phối trộn với thức ăn để cho cá ăn (khi cá đạt 6 tháng tuổi) nên đàn cá dĩa của chú con nào cũng cao dạo, màu sắc rực rỡ, sắc sảo, vì thế giá bán thường cao gấp đôi so với những con cá dĩa bình thường.
Với diện tích chưa đầy 100 m2 nhưng mỗi năm, trại cá dĩa mang về cho chú thu nhập trên 100 triệu đồng. Với nghề nuôi cá dĩa, đã tạo cho gia đình chú có cuộc sống ngày càng khấm khá.
Khá Giả Nhờ Nuôi Cá Bớp Biển – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam
Tính đến cuối năm 2018, toàn tỉnh đã có gần 3.000 lồng bè nuôi cá các loại trên biển thu hoạch đạt sản lượng trên 1.400 tấn chủ yếu thả nuôi các loại cá mú, cá bớp tập trung chủ yếu trên vùng biển Phú Quốc và đảo Nam Du thuộc huyện Kiên Hải. Mô hình nuôi cá bớp trong lồng bè trên biển được người dân chọn nuôi nhiều nhất so với các loại khác như cá bóng mú, bóng cọp, bóng sao và chim trắng… Để không bị động nguồn con giống nhất là cá bớp người dân đã sử dụng con giống sinh sản nhân tạo, đa phần nuôi đã đem lại hiệu quả cao.
Anh Phan Văn Lưu, ở ấp An Cư, xã An Sơn, huyện Kiên Hải đầu tư 9 lồng bè nuôi cá bớp khoảng 1.400 con. Cá bớp nuôi trong vòng 9 – 10 tháng đạt trọng lượng 6 – 8 kg/con. 9 bè nuôi cá bớp (khoảng 15 m2/bè) của gia đình anh Lưu mỗi năm cho thu nhập 250 – 300 triệu đồng. Thức ăn của cá bớp chủ yếu là các loại cá con, cá tạp được đánh bắt ngoài thiên nhiên. Để cá bớp nuôi cho năng suất cao, yếu tố quan trọng là nguồn con giống phải khỏe, giúp cá ít bệnh và nuôi mau lớn. Hiện cá bớp giống được bán giá 200.000 – 220.000 đồng/con; tuy nhiên hiện nay do nghề nuôi cá bớp phát triển mạnh nên giá cá bán tại bè cho thương lái từ 140.000 – 160.000 đồng/kg (tùy loại lớn nhỏ); giá cá xuất sang thị trường Trung Quốc có thời điểm đạt khoảng trên 200.000 đồng/kg.
Ngành nông nghiệp Kiên Giang đang đẩy mạnh phát triển mô hình nuôi cá biển công nghiệp sẽ tạo điều kiện để khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế trong phát triển kinh tế biển.
Ngọc Trinh
Tiền Giang: Thăng Trầm Nghề Mò Cá Ngát – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam
“Hụp lặn” dưới đáy sông
Trời chạng vạng tối, chúng tôi theo chân nhóm người mò cá ngát ra bến ghe để chuẩn bị xuất phát. Trên tay ai nấy cũng mang theo một chiếc thùng dùng để chứa đồ ăn và một số vật dụng khác. Mọi người đã có mặt đông đủ, chiếc ghe bắt đầu nổ máy “tạch tạch” xuôi theo con nước đâm thẳng ra sông Tiền.
màn đêm đầy hơi sương, gió vẫn lồng lộng thổi, những con sóng nhấp nhô đánh vào mạn ghe làm nước văng tung tóe. Ngồi trên ghe, anh Trần Văn Bảy (ấp Thuận Trị, xã Bình Tân, huyện Gò Công Tây) thủ thỉ: “Hôm nay, ghe này đi ra tận cửa biển Đèn Đỏ để mò cá, chắc cũng phải mất hơn 1 giờ đi ghe mới tới nơi. Mỗi chuyến đi mất khoảng 8 giờ, thời gian mò cá khoảng 3 – 4 giờ”.
Cũng như bao nghề biển khác, nghề mò cá ngát cũng phụ thuộc hoàn toàn vào con nước, mỗi tháng 2 con nước (15 và 30 âm lịch). Trung bình mỗi con nước việc mò cá ngát sẽ kéo dài khoảng 7 ngày, cũng có khi dài hơn nếu bắt được nhiều cá.
Sau hơn một giờ vượt sóng, chiếc ghe đã đến được cửa biển Đèn Đỏ và neo lại chờ trăng lên. Khoảng 21 giờ, trăng đã nhô lên cao tỏa ánh sáng lấp lánh trên sông, nước cũng đã cạn dần, những bãi bồi ven sông đã lộ rõ.
Lúc này, nhóm người mò cá ngát ăn vội phần cơm mà họ mang theo rồi khẩn trương mang đồ nghề nhảy tọt xuống sông. Dụng cụ mò cá ngát rất đơn giản, chỉ là 1 cây sào dài khoảng 4 – 5 m, 1 cái vợt lưới và 1 cây dầm.
Cây sào dùng làm điểm tựa khi họ ngoi lên mặt nước để thở và cũng để đánh dấu khi phát hiện hang cá ngát. Dưới dòng sông nước chảy xiết, công việc của những người mò cá ngát là phải lặn xuống tận đáy sông để dò tìm hang cá. Ngọn cây sào cứ nhấp nhô theo sự di chuyển của họ dưới đáy sông. Cứ khoảng 15 giây, họ lại ngoi lên mặt nước để hít thở một lần, sau đó lại tiếp tục lặn xuống để tìm hang cá ngát.
Chẳng mấy chốc, họ đã cách chiếc ghe hàng trăm mét. Bỗng nhiên có tiếng gọi “í ới” từ dưới sông phát lên, đó chính là ám hiệu cho người lái ghe khi phát hiện hang cá ngát. Anh lái ghe tức tốc nhổ neo, nổ máy chạy tới nơi những người mò cá ngát phát hiện ra hang, rồi nhanh chóng chuyền cái vợt và cây dầm xuống.
Cá ngát được bắt lên và cho vào khoang ghe.
Cá ngát có đặc tính là đào hang để làm nơi trú ngụ, mỗi hang như vậy thường có 2 – 3 ngách, mỗi ngách cách nhau khoảng 2 – 3 m. Muốn bắt được cá, người mò phải biết chính xác đâu là cửa chính, cửa phụ của hang để úp vợt và dồn cá vào đó.
Bước vất vả nhất có lẽ là lúc đào hang. Người mò cá phải dùng tay để đào đất sâu xuống mới có thể bắt được cá. Anh Bảy vừa từ dưới đáy sông ngoi lên nói to: “Cái hang này có 2 miệng nhưng sâu quá phải mất nhiều thời gian để đào. Anh chuyền cho tôi cái vợt với cây dầm để bắt mấy con cá này”.
Nói xong, anh Bảy tiếp tục lặn xuống, những người khác tiếp tục việc dò tìm hang. Sau nhiều lần hụp lặn, đào bới dưới đáy sông, cuối cùng những con cá ngát hung tợn đã nằm gọn trong vợt. Cầm cái vợt cá trên tay, anh Bảy vừa thở vừa khoe: “2 con cá này chắc cũng được 3 kg. Có hôm bắt được những con cá gần cả chục ký, dài cả mét. Mấy con này là dạng nhỏ thôi”.
Nốt trầm cho nghề “độc”
Đối với những người mò cá ngát, kinh nghiệm là điều quan trọng nhất. Một người có kinh nghiệm chỉ cần vừa lặn xuống đáy sông chạm vào đất có thể biết nơi đó có nhiều cá hay không. Người mò tìm hang cá cần phải nắm được ngách nào là chính, ngách nào là phụ để úp vợt. Đó là những kinh nghiệm quyết định đến thành quả lao động. Tháng 5 đến tháng 9 âm lịch là mùa cá ngát sinh sản. Đây cũng là mùa chính của nghề mò cá ngát.
Thời kỳ hoàng kim của nghề mò cá ngát cách đây khoảng 10 năm. Lúc đó, số lượng cá ngát ở các con sông còn nhiều, mỗi chuyến đi có thể bắt được vài chục ký cá. Ấp Thuận Trị, xã Bình Tân, huyện Gò Công Tây là nơi nổi tiếng với nghề mò cá ngát, có thời điểm lên đến cả 100 người. Hiện nay thu nhập từ nghề mò cá ngát đang ngày càng bấp bênh do số lượng cá không còn nhiều, thêm vào đó phải làm việc trong môi trường nguy hiểm, vất vả nên nhiều người đã bỏ nghề.
Số người mò cá ngát ở ấp Thuận Trị hiện chỉ còn khoảng 20 người, đa phần là có thâm niên và kinh nghiệm. Anh Võ Thanh Cường (ấp Thuận Trị, xã Bình Tân, huyện Gò Công Tây), người có gần 20 năm trong nghề mò cá ngát cho biết:
“Cá ngát bây giờ có giá hơn lúc trước, cá cái có giá khoảng 50.000 đồng/kg, còn cá đực khoảng 80.000 đồng/kg, nhưng số lượng không còn nhiều. Trước đây, mỗi ngày tôi đi bắt được cả mấy chục ký cá, nhưng nay có hôm đi về mà chẳng có con nào. Có lúc tới con nước là cả chục ghe nối đuôi nhau đi mò cá ngát, còn bây giờ lác đác 1 – 2 chiếc”.
Vất vả, nguy hiểm là những gì mà người mò cá ngát phải trải qua trong những chuyến mưu sinh của họ. Với việc phải lặn hàng giờ dưới đáy sông sâu hàng chục mét để tìm hang cá ngát, đôi tai của những người làm nghề này phải chịu sức ép liên tục của áp suất nước. Ngoài ra, trong quá trình dò tìm và bắt cá, người mò cũng có thể bị dẫm phải miểng chai, lọ và bị cá ngát đâm.
Anh Võ Văn Dũng (ấp Thuận Trị, xã Bình Tân, huyện Gò Công Tây) trải lòng: “Bây giờ muốn bắt được cá ngát phải lặn sâu, nên nhiều người lặn không nổi. Ở đây có mấy người đi mò cá ngát, do áp suất nước quá lớn nên lỗ tai đau nhức không thể lặn được nữa đành bỏ nghề; còn việc bị đạp miểng chai hay cá ngát đâm xảy ra như ăn cơm bữa”.
Khi nhắc tới nghề mò cá ngát, nhiều người không khỏi lắc đầu ngao ngán. Anh Phùng Văn Hùng (ấp Thuận Trị, xã Bình Tân, huyện Gò Công Tây) bày tỏ: “Bây giờ công ty, xí nghiệp mở ra nhiều nên lớp trẻ đâu ai làm nghề này nữa, cực nhọc, nguy hiểm mà thu nhập bữa có bữa không”.
Thủy triều bắt đầu lên, gió cũng thổi mạnh hơn, chiếc ghe của những người mò cá ngát trở về sau hàng giờ mưu sinh vất vả. Dưới khoang ghe là những con cá ngát dài thượt, trơn bóng giãy đành đạch. Trên mui ghe là những người làm nghề mò cá ngát với đôi mắt đỏ hoe vì phải lặn hàng giờ dưới đáy sông, đã nói lên những nhọc nhằn và trăn trở của cái nghề bao năm đã gắn bó với họ…
Kg – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam
Hiện giá cá điêu hồng được thương lái tới tận bè thu mua với giá 41.000 – 42.000 đ/kg tùy theo loại cá và hình thức bắt cá. Với giá cá thời điểm này, người nuôi cá điêu hồng lồng bè vẫn còn lãi khoảng 11.000 – 12.000 đ/kg.
Ông Lê Minh Sang, nông dân nuôi cá bè ở xã Thới Sơn, TP Mỹ Tho (Tiền Giang) cho biết, mấy ngày nay các thương lái tới tận bè của nông dân thu mua cá điều hồng với giá 41.000 đ/kg nếu bắt cá bằng ghe đục. Đối với những thương lái bắt cá điêu hồng oxy (cá giữ trong bao ni lông chứa nước có bơm oxy), cá điêu hồng được thu mua với giá 41.500 – 42.000 đ/kg. Tính ra giá cá điêu hồng các loại đã giảm khoảng 2.000 đ/kg so với tuần trước.
Mấy ngày qua, nguồn cung cá điêu hồng tại bè tăng trở lại nên giá cá giảm nhẹ
Theo nhiều nông dân nuôi cá điêu hồng ở xã Thới Sơn, hiện giá thành sản xuất cá điêu hồng trên bè gồm con giống, thức ăn, thuốc thú y, nhân công… trong vòng 6 tháng nuôi cá bình quân khoảng 30.000 đ/kg. Năng suất bình quân mỗi bè nuôi cá điêu hồng thể tích 100 m3 ở địa phương này khoảng 5 tấn cá, nên sau khi trừ mọi chi phí sản xuất nông dân còn lãi từ 55 – 60 triệu đ/bè (tương đương 11.000 – 12.000 đ/kg cá). Thông thường mỗi nông dân nuôi cá bè ở Tiền Giang có từ 4 – 5 bè, thậm chí có tới cả trăm bè, vì vậy nếu chủ bè nào có cá bán trong thời gian gần đây sẽ có lãi hàng trăm triệu đồng.
Ông Nguyễn Văn Thành, một thương lái chuyên thu mua cá điêu hồng cung cấp cho thị trường Tp Hồ Chí Minh cho biết, nguyên nhân khiến giá cá điêu hồng giảm nhẹ trong mấy ngày qua là do nguồn cung cá điêu hồng nuôi bè ở Tiền Giang cũng như ở các tỉnh lân cận có dấu hiệu tăng trở lại. Nhiều chủ bè có cá tới lứa thu hoạch đồng loạt nên giá cá giảm chút đỉnh. Tuy nhiên, giá cá điêu hồng trong thời gian tới sẽ vẫn nằm ở mức cao trên dưới 40.000 đ/kg, do thị trường tiêu thụ cá điêu hồng hiện rất tốt và dịp Quốc Khánh 2/9 cũng đang đến gần.
Mặc dù, giá cá điêu hồng có xu hướng giảm nhưng nhiều nông dân nuôi cá điêu hồng trên bè có kinh nhiệm cũng nhận định giá khó có thể giảm xuống thấp hơn 40.000 đ/kg.
Ông Phan Thế Nhân, nông dân có 5 bè nuôi cá điêu hồng ở xã Thới Sơn, TP Mỹ Tho (Tiền Giang) cho biết, thời gian gần đây giá cá điêu hồng nằm ở mức cao, thậm chí giá cá lúc đỉnh điểm lên tới 44.000 đ/kg, nhưng người nuôi bè chưa dám khôi phục hoàn toàn sản xuất nên sản lượng cá cung cấp cho thị trường không dồi dào như những năm trước.
“Nếu trước đây bình quân mỗi chủ bè có 5 – 6 bè thả nuôi cá thì hiện nay họ chỉ dám thả nuôi 3 – 4 bè, mặc dù giá cá đang ở mức cao. Nguyên nhân là do đợt giá cá điêu hồng thấp dưới giá thành sản xuất năm ngoái (thua lỗ) trong thời gian dài đã làm cho người nuôi cụt vốn, trong khi đó hiện các đại lý kinh doanh thức ăn cá không còn bán thức ăn theo kiểu gối đầu như trước đây. Hiện nay, bình quân nuôi một bè nuôi cá điêu hồng thể tích 100 m3 giai đoạn từ 3 – 6 tháng cần phải có 5 – 7 bao thức ăn cá với giá trị gần 2 triệu đồng/ngày, do đó người nuôi cá không đủ vốn để thả nuôi hết các bè hiện có. Mặt khác, giá cá điêu hồng thời gian gần đây quá bấp bênh, nhiều lúc phải chịu lỗ nặng trong thời gian dài nên người nuôi cá cũng không yên tâm đầu tư vụ nuôi mới”, ông Nhân tâm tư.
Theo số liệu thống kê của ngành chức năng, tuần qua có 26 bè thu hoạch với sản lượng 150 tấn. Từ đầu năm đến nay đã có 856 bè với 16,748 triệu cá giống thả nuôi mới (chủ yếu thả trong quý II/2013), sản lượng thu hoạch 4.297 tấn. Hiện nay, toàn tỉnh có 1.004 bè đang thả nuôi trong tổng số 1.279 bè đang neo đậu (chiếm 78%).
Bạn đang đọc nội dung bài viết Tiền Giang: Thoát Nghèo, Trở Nên Khấm Khá Nhờ Con Cá Dĩa – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam trên website Nhahangchacangon.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!