Cập nhật nội dung chi tiết về Thuế Bán Phá Giá Cá Tra Việt Nam Tại Mỹ: Sự Phi Lý Khi Lựa Chọn Nước Tương Đồng Indonesia – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam mới nhất trên website Nhahangchacangon.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Ngày 29/3/2016, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) đã công bố các kết quả cuối cùng đợt rà soát hành chính lần thứ 11 của lệnh chống bán phá (CBPG) với mặt hàng fillet cá tra/basa đông lạnh từ Việt Nam. Hai nhà xuất khẩu lớn nhất, HVG và Tafishco đã nhận được mức thuế suất tương ứng 0,41 USD/kg và 0,97 USD/kg, trong khi mức thuế suất bình quân là 0,69 USD/kg đã được đánh vào các công ty hưởng mức thuế suất riêng biệt (nghĩa là các công ty có thể chứng minh sự độc lập từ Chính phủ Việt Nam). Cuối cùng, một mức thuế suất trừng phạt là 2,39 USD/kg từ các giai đoạn trước đã được duy trì đối với tất cả các nhà xuất khẩu Việt Nam khác. Rõ ràng, DOC đã quá vô lý và bất chấp tất cả lựa chọn một nước không tương đồng kinh tế với Việt Nam để tính toán mức thuế CBPG nhập khẩu fillet cá tra/basa của Việt Nam vào thị trường Mỹ.
Sự phi lý
Trong tiến trình vụ kiện CBPG của Mỹ, cáo buộc đối với các nhà xuất khẩu là họ đã tham gia bán hàng vào thị trường Mỹ với mức giá thấp hơn giá trị thị trường hợp lý (giá trị thông thường) của hàng hóa, mà việc bán hàng này đã gây ra sự tổn hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất nội địa của Mỹ. Giá trị thông thường điển hình là giá mà nhà xuất khẩu bán hàng hóa tại thị trường nội địa của nhà xuất khẩu. Tuy nhiên, một ngoại lệ được thực hiện đối với các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường (“NME”) như Việt Nam và Trung Quốc. Căn cứ vào việc đối xử Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế phi thị trường, DOC đã từ chối dữ liệu chi phí và giá cả được báo cáo từ Việt Nam. Thay vào đó, theo pháp luật Mỹ, DOC xác định giá trị thông thường của fillet cá tra/basa bằng việc áp dụng phương pháp xây dựng chi phí, trong đó định giá tất cả các yếu tố đầu vào riêng lẻ được sử dụng để sản xuất fillet cá (cá nguyên con, con giống, thức ăn, hóa chất, chi phí nhân công, điện,…) dựa trên các mức giá đang phổ biến tại một quốc gia giá trị thay thế. Do đó, rõ ràng là việc lựa chọn một quốc gia giá trị thay thế phù hợp là một quyết định quan trọng nhất, có ảnh hưởng lớn đối với kết quả cuối cùng trong một vụ kiện CBPG.
Theo pháp luật Mỹ, DCO được ủy thác lựa chọn quốc gia giá trị thay thể đối với Việt Nam căn cứ vào hai tiêu chí: Một là, quốc gia đó nên “tương đồng về mặt kinh tế” đối với Việt Nam về mặt tổng thu nhập quốc dân tính theo đầu người (“GNI”); Hai là quốc gia đó nên là một “nhà sản xuất đáng kể” hàng hóa có thể so sánh được. Trong đợt rà soát lần thứ 11, DOC đã lựa chọn Indonesia làm quốc gia giá trị thay thế so với Việt Nam, và vì vậy đã xác định giá trị thông thường của fillet cá tra/basa bằng việc định giá tất cả các yếu tố sản xuất đầu vào riêng lẻ căn cứ trên giá tại thị trường Indonesia và sau đó tập hợp chúng lại để có được giá trị thông thường của fillet cá xuất khẩu. Như được giải thích bên dưới, việc DOC ưu tiên lựa chọn Indonesia làm quốc gia giá trị thay thế là trái pháp luật và là lý do quan trọng nhất dẫn tới các mức thuế CBPG rất cao đối với fillet cá Việt Nam.
Cá tra fillet Việt Nam vẫn “long đong” tại thị trường Mỹ – Ảnh: LHV
Tại sao?
Không có tranh cãi nào về việc Indonesia không tương đồng kinh tế với Việt Nam. Tại sao lại như vậy? Vào lúc bắt đầu tiến trình của mỗi đợt rà soát, Văn phòng Chính sách của Bộ Thương mại (“OP”) ban hành một danh sách các quốc gia được cân nhắc là tương đồng về mặt kinh tế với Việt Nam, căn cứ trên tổng thu nhập quốc dân theo đầu người (GNI) của các quốc gia riêng lẻ. Danh sách của OP ban hành vào thời điểm bắt đầu đợt rà soát hành chính thứ 11 đã không bao gồm Indonesia do GNI của Indonesia đã bỏ xa GNI của Việt Nam. Do đó, theo luật và tiền lệ đã được xác lập, DOC đã được yêu cầu lựa chọn một quốc gia giá trị thay thế từ danh sách các quốc gia tương đồng về mặt kinh tế của OP, bao gồm Bangladesh, Philippines và Ấn Độ. Tất cả các quốc gia này không chỉ tương đồng về mặt kinh tế với Việt Nam mà còn có các nhà sản xuất fillet cá tra/basa đáng kể. Tất cả ba quốc gia này, đặc biệt Bangladesh, có đủ dữ liệu giá chất lượng cho phép DOC xác định giá trị thông thường của fillet cá chính xác.
Sự kiện này nêu lên một câu hỏi nghiêm túc là tại sao Bộ Thương mại Mỹ đành phải lựa chọn một quốc gia không tương đồng về mặt kinh tế, Indonesia, làm quốc gia giá trị thay thế. Các giải thích của DOC về vấn đề này còn lưỡng lự và không có sức thuyết phục, mâu thuẫn với thực tiễn và tiền lệ tòa án.
Lịch sử tiến trình CBPG đối với fillet cá Việt Nam thể hiện hơn 10 năm qua, cho đến đợt rà soát hành chính lần thứ 8, căn cứ theo việc lựa chọn Bangladesh làm quốc gia giá trị thay thế nhất quán, DOC đã xác định giá trị thông thường của fillet cá tra/basa Việt Nam căn cứ trên dữ liệu giá của Bangladesh. Cần phải được nhấn mạnh rằng trong suốt giai đoạn này, Bangladesh và Indonesia đều nằm trong danh sách các quốc gia tương đồng về mặt kinh tế của OP và lúc này Bangladesh đã được ưu tiên lựa chọn một cách kiên định so với Indonesia. Trong suốt giai đoạn này, dù các mức thuế CBPG đã được đánh vào các đợt xuất khẩu của Việt Nam nhưng ở một mức độ được cho là hợp lý và không mang tính trừng phạt. Đó là các mức thuế suất CBPG được tính toán hết sức công bằng và chính xác để đảm bảo sự cân bằng giữa việc bảo vệ nền công nghiệp cá da trơn Mỹ và việc cho phép kinh doanh cá rộng mở, công bằng từ Việt Nam. Những người thụ hưởng cuối cùng là các khách hàng Mỹ, những người đã có thể mua fillet cá tra/basa với các mức giá phải chăng, thay vì phải thanh toán các mức giá độc quyền và cao quá đáng. Việc nhập khẩu từ Việt Nam cũng đã duy trì hàng ngàn công việc trong chuỗi cung ứng, từ Việt Nam đến thị trường Mỹ. Chỉ có một bên bị thiệt hại là nền kỹ nghệ nội địa Mỹ.
Do thất bại về cơ bản trong nỗ lực khống chế việc nhập khẩu từ Việt Nam ngay cả sau nhiều đợt rà soát chống bán phá giá bởi DOC, các chủ trại nuôi nội địa của Mỹ tại Mississippi, Arkansas và Louisiana và Hiệp hội các chủ trại cá da trơn Mỹ (CFA) đã yêu cầu thay đổi các quy tắc của trò chơi trong một đêm. Do thua tất cả các trận đánh trước đây theo luật và theo các sự kiện thực tế, trong đợt rà soát hành chính lần thứ 8, CFA đã gây sức ép lớn đối với DOC, khiến DOC phải thay đổi đội ngũ điều tra mà đã giải quyết vụ kiện này hết sức mẫn cán trong suốt thời gian trước đó. Tuy nhiên, CFA đã vẫn phải đối mặt với chướng ngại vật chính trong mục tiêu của mình để ép buộc một sự thay đổi mang tính phương pháp luận nhằm đạt mức thuế suất CBPG rất cao bởi vì Indonesia thì đã được loại bỏ ngay tức khắc mà không cần phải giải thích khỏi danh sách các quốc gia tương đồng về mặt kinh tế của OP trong đợt rà soát hành chính lần thứ 8. Tuy nhiên, CFA đã kiên cường vận động hành lang DOC để chuyển đổi quốc gia giá trị thay thế từ Bangladesh, một quốc gia tương đồng về mặt kinh tế, sang Indonesia, một quốc gia không tương đồng về mặt kinh tế.
Các nhà xuất khẩu Việt Nam và VASEP đã bị sốc khi DOC lựa chọn Indonesia thay vì Bangladeesh vào tháng 3/2016 làm quốc gia giá trị thay thế. Việc chuyển đổi quốc gia giá trị thay thế đã báo hiệu một kỷ nguyên của các mức thuế CBPG cao, gây tranh cãi và mang tính trừng phạt một cách bất hợp lý đối với các nhà xuất khẩu fillet cá tra/basa Việt Nam.
DOC nói gì?
Sự lựa chọn Indonesia của DOC rõ ràng là bất hợp lý vì nhiều lý do. Trước tiên, thực sự không thể giải thích được việc DOC đột ngột lựa chọn Indonesia, chỉ sau khi quốc gia này được loại bỏ một cách rõ ràng bởi chính DOC do không đáp ứng tiêu chí tính tương đồng về mặt kinh tế. Thứ hai, ngay cả khi bỏ qua vấn đề thiếu tính tương đồng về mặt kinh tế, lập luận đề xuất của DOC khi lựa chọn Indonesia thay vì sự lựa chọn Bangladesh đã được “ổn định” – rằng chỉ riêng Indonesia có đủ dữ liệu giá đáng tin cậy đối với cá nguyên con trong khi dữ liệu giá của Bangladesh là không đáng tin cậy – là không thuyết phục và mâu thuẫn với hàng đống chứng cứ được nộp cho DOC.
Dữ liệu Thống kê Thủy sản của Indonesia (IAS) được sử dụng để định giá cá nguyên con, đã bị chỉ trích bởi Tổng Cục trưởng khi đó của IAS, ông Ketuk Sugama. Trong một bản tuyên thệ đã ký mà đã được nộp cho DOC, ông Sugama giải thích rằng dữ liệu IAS đã phản ánh dữ liệu giá của nhiều loài cá khác hẳn nhau được nuôi trồng nhiều phương pháp thủy sản hơn là bằng ao (như ở Việt Nam), và đã bị bóp méo bởi các giá bán lẻ đối với cá đã chế biến. Trái lại, VASEP đã nộp nhiều công văn từ các viên chức chính phủ Bangladesh, chứng minh chất lượng cao của dữ liệu giá bán buôn của Cơ quan Tiếp thị Nông nghiệp Bangladesh (DAM) đối với các loài pangasius hypophthalmus được nuôi trong ao (mà tương đương với cá tra/basa được nuôi trong ao).
Tuy vậy, DOC đã từ chối một cách bất hợp lý dữ liệu DAM bằng việc chỉ đơn giản dựa vào một vài bản tuyên thệ tự thực hiện được cung cấp bởi các nhà tư vấn có trả tiền của CFA mà đã cáo buộc một cách sai lầm rằng dữ liệu DAM có bao gồm giá bán cá chết, trong khi Bộ Thương mại chấp nhận một cách mù quáng dữ liệu của IAS, hoàn toàn lờ đi bản tuyên thệ có thẩm quyền của ông Sugama. VASEP đã phản đối quyết định này ra trước Tòa án Thương mại Quốc tế Mỹ và kết quả cuối cùng vẫn đang được chờ đợi.
Trong khi chờ đợi, với việc chuyển sang thực tiễn áp dụng bất hợp pháp của mình để lựa chọn một quốc gia không tương đồng về mặt kinh tế, Indonesia, là quốc gia giá trị thay thế chính đối với Việt Nam, DOC đã tiếp tục đánh thuế CBPG ở mức độ cao mang tính ngăn cấm trong các đợt rà soát hàng năm lần thứ 9, thứ 10, và 11. VASEP đã nộp kháng cáo tại tòa phản đối các quyết định tiếp theo của DOC.
Lối thoát?
Gần đây, có một tin tốt cho các nhà xuất khẩu Việt Nam đang khó khăn. Vào ngày 30/3/2016, Tòa án Thương mại Quốc tế đã tuyên án thuận lợi cho VASEP về vấn đề quốc gia giá trị thay thế (duy trì sự lựa chọn Bangladesh của DOC) và sự đáng tin cậy toàn diện của dữ liệu DAM của Bangladesh, trong kháng cáo được nộp bởi CFA phản đối kết quả cuối cùng của đợt rà soát hành chính lần thứ 7. Tuy nhiên, vẫn còn chưa rõ mức độ quyết định này sẽ giúp đỡ VASEP trong các vụ tranh tụng trong tương lai như thế nào.
Thậm chí trong khi các nhà xuất khẩu Việt Nam đã và đang vật lộn với sự thất thường của các chu trình rà soát hàng năm của tiến trình CBPG, CFA đã tiếp tục tạo ra thêm các hàng rào phi thuế quan chống lại việc xuất khẩu fillet cá tra/basa từ Việt Nam. Căn cứ theo các nỗ lực vận động hành lang của CFA, bắt đầu từ ngày 1/3/2016, tất cả các nhà xuất khẩu cá tra/basa phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt của Cơ quan Kiểm tra và An toàn thực phẩm (FSIS) trực thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA). Các tiêu chuẩn tương đồng và chế độ kiểm tra/chứng nhận toàn quốc của USDA-FSIS rất phức tạp và sẽ là một thử thách đối với Việt Nam. May mắn thay, một giai đoạn chuyển tiếp 18 tháng can thiệp vào trước khi các tiêu chuẩn này có hiệu lực đầy đủ.
Do đó, một điều lưu ý quan trọng đối với VASEP và Chính phủ Việt Nam là tiếp tục đấu tranh với vấn đề lựa chọn quốc gia giá trị thay thế với Mỹ. Chính quyền Mỹ nên được thông báo rằng thực tiễn hoạt động của DOC về vấn đề này là mâu thuẫn nội tại. Trong một tiến trình CBPG đang diễn ra song song đối với một sản phẩm thủy sản khác – tôm đông lạnh – từ Việt Nam, DOC tiếp tục lựa chọn Bangladesh làm quốc gia giá trị thay thế. Sự kiện này đề xuất rằng việc lựa chọn Indonesia làm quốc gia giá trị thay thế không dựa trên luật hay dữ kiện thực tế; thay vào đó, nó là kết quả của sự lựa chọn định hướng kết quả, được thiết kế chỉ nhằm để tăng biên độ CBPG. Chính quyền Việt Nam cũng nên cân nhắc sử dụng ảnh hưởng từ các quan hệ mới và các động thái xung quanh Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) chống lại thực tiễn hoạt động bất hợp pháp và bất công của Bộ Thương mại trong vụ kiện CBPG fillet cá Việt Nam.
Cá Tra Dầu – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam
Đặc điểm
Cá tra dầu có thể coi là loài cá nước ngọt lớn nhất thế giới, thuộc họ cá tra, bộ cá da trơn. Kích thước của chúng lớn, chiều dài có thể lên đến 3 m và trọng lượng có thể đến 300 kg. Cá có đầu to và dẹp, miệng rộng với hai râu dài ở hàm trên, vây bụng dài đến vây đuôi, vây lưng nhỏ ở phía trước. Lưng cá có màu nâu thẫm, màu ở bụng và vây nhạt hơn. Mặc dù lớn nhưng cá tra dầu chỉ ăn thực vật thủy sinh. Cá có đôi mắt nằm thấp trên đầu và hướng xuống dưới, có màu trắng sang vàng ở phía dưới. Chúng được phân biệt với các loại cá da trơn khác bởi râu kém phát triển hơn và không có răng.
Cá tra dầu có tập tính di cư sinh sản, chúng thường di chuyển từ tháng 10 đến tháng 12, từ hồ Tonle Sap ở Campuchia vào sông Cửu Long, từ đó nó tiến ngược dòng vào phía Đông Bắc Campuchia, Lào và Thái Lan để đẻ trứng. Chúng sử dụng các thực vật phát triển trong nước làm thức ăn. Đây là loài đặc hữu đối với lưu vực sông Mê kông chảy qua Campuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam và Trung Quốc. Cá tra dầu chủ yếu được tìm thấy ở hồ Tonle Sap và sông Mê Kông.
Hiện trạng
Cá tra dầu đã từng phân bố rộng rãi dọc lưu vực, từ Myanmar cho tới tây nam Trung Quốc. Cho đến đầu những năm 1990, quần thể loài này vẫn còn tương đối dồi dào. Từ đó tới nay, số lượng loài này đã bị giảm mạnh, và chỉ được tìm thấy tại sông Mê Kông và các nhánh của nó tại Lào, Campuchia và Thái Lan. Tính riêng trong thế kỷ qua, sản lượng cá tra dầu trên sông Mê Kông giảm đến 95%, và đứng trước bờ vực tuyệt chủng. Chúng được phân loại là rất nguy cấp trong Danh sách đỏ IUCN 2004, được liệt kê trong Phụ lục I của Công ước về Bảo tồn di cư loài động vật hoang dã và Phụ lục I của Công ước CITES. Theo nghiên cứu Dự án bảo tồn cá Mê Kông hợp tác với Bộ Thủy sản Campuchia tiến hành nghiên cứu vào năm 2001, đã cung cấp bằng chứng việc nạo vét, xây dựng đập đã phá hủy các bãi đẻ của cá tra dầu, đồng thời cản trở sự di chuyển và không gian sống của chúng.
Tuy nhiên, nguyên nhân chính dẫn đến quần thể cá tra dầu sông Mê Kông đã bị suy giảm mạnh do việc đánh bắt quá mức. Hiện, để bảo vệ loài cá tra dầu, ở một số nước như Thái Lan, Lào và Campuchia đã ban hành luật cấm khai thác loài cá này. Nhưng, tại nhiều ngôi làng hẻo lánh, dọc theo sông Mê Kông, người dân vẫn không thực thi điều luật này.
Giới khoa học chỉ biết đến loài cá này từ năm 1930 khi nó được “khám phá” tại một chợ cá ở Phnôm Pênh (Campuchia) và cho đến nay vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về loài cá này. Vào năm 2005, một cơ quan thủy sản Thái Lan đã bắt và nuôi giữ được một con cá tra dầu, có chiều dài 3 m và nặng 200 kg để nuôi giữ, và tiến hành sinh sản nhân tạo. Nhưng, cá đã chết trong khi nuôi nhốt và được bán làm thực phẩm cho người dân địa phương.
Cá tra dầu không thể nuôi nhốt mà chỉ đánh bắt được ngoài môi trường tự nhiên. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, trong cá tra dầu có lượng Omega 3 dồi dào nên rất bổ dưỡng cho não.
Xuất Khẩu Diễn Biến Ra Sao Khi Mỹ Áp Thuế Chống Bán Phá Giá Cá Tra Việt Nam?
Vừa qua, khi Bộ thương mại Mỹ (DOC) có thông báo sơ bộ về quyết định xem xét hành chính lần thứ 13 (POR13) đối với mặt hàng cá tra phi lê đông lạnh của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ đã gây hoang mang cho doanh nghiệp xuất khẩu cá tra Việt Nam.
Tuy nhiên, đây chưa phải là thông báo chính thức, các doanh nghiệp vẫn còn thời gian để nộp hồ sơ để Bộ Thương mại Mỹ xem xét lại thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm cá tra Việt Nam.
Khi Mỹ công bố quyết định này, phía Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) đã có ý kiến cho rằng, đợt xem xét thứ 13 thể hiện sự không công bằng, trái ngược với các quy định về luật chống bán phá giá thông thường.
Đồng thời, mang tính áp đặt vô lý đối với các doanh nghiệp đang xuất khẩu sản phẩm cá tra phi lê đông lạnh vào Mỹ. Trong đó, mức thuế chống bán phá giá trong kỳ 13 là 2,39 USD/kg, cao gấp 3 lần so với kỳ áp thuế lần thứ 12.
Cụ thể, Bộ Thương mại Mỹ đã áp dụng các yếu tố bất lợi có sẵn và tính biên độ phá giá đối với Công ty Cổ phần Gò Đàng (GODACO) – Tiền Giang lên mức 2,39 USD/kg. Bộ Thương mại Mỹ đã cho rằng, GODACO không hợp tác trong quá trình xem xét và không cung cấp đầy đủ dữ liệu cần thiết cho Bộ Thương mại Mỹ để điều tra.
Trả lời vấn đề này, ông Nguyễn Hoàng Đạo, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Gò Đàng nhấn mạnh, đối với kỳ xem xét thuế chống bán phá giá lần thứ 13, Gò Đàng đã mời các luật sư từ Mỹ để chuẩn bị rất kỹ hồ sơ, chứng từ chi phí nhân công, xử lý môi trường, điện nước, giá thành nguyên liệu… để gửi cho Bộ Thương mại Mỹ, nhưng Bộ Thương mại Mỹ đã áp dụng các quy định bất hợp lý của Luật chống bán phá giá.
Hiện nay, Công ty Gò Đàng cùng 10 doanh nghiệp xuất khẩu cá tra sang Mỹ như: Công ty cổ phần Hùng Vương, Công ty TNHH thủy sản Biển Đông, Công ty Hùng Hậu, Công ty Thực phẩm An Giang… chuẩn bị hồ sơ gửi sang Bộ Thương mại Mỹ để đề nghị xem xét lại thuế chống bán giá đối với cá tra phi lê đông lạnh của Việt Nam.
Dự kiến đến ngày 12/10/2017 sẽ kết thúc kỳ hạn nhận hồ sơ xem xét. Khi hoàn tất thủ tục này, đến tháng 3/2018, Bộ Thương mại Mỹ sẽ có quyết định chính thức áp thuế chống bán phá giá lên sản phẩm cá tra Việt Nam.
Theo ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam, các vụ kiện về việc bán phá giá của cá tra Việt Nam diễn ra hàng năm. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, Mỹ vẫn đang áp mức thuế đối với sản phẩm cá tra Việt Nam là 69 cent/kg.
Với mức thuế này, các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra Việt Nam vào Mỹ vẫn đang cầm cự được và hoạt động xuất khẩu vẫn diễn ra bình thường, chưa ảnh hưởng lớn đến việc xuất khẩu cá tra của Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp bị áp thuế nói riêng.
Sẽ cán đích 1,7 tỷ USD vào cuối năm
Mặc dù cá tra Việt Nam vào Mỹ đang phải canh tranh gay gắt từ Hiệp hội cá nheo Mỹ, nhưng các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra Việt Nam đã có nhiều chiến lược để đẩy mạnh phát triển con cá tra trên thị trường thế giới.
Không riêng tại thị trường Mỹ, các thị trường “khó tính” như Nhật Bản, châu Âu cũng đang hướng đến lựa chọn sản phẩm cá tra Việt Nam, đặc biệt là các sản phẩm chế biến sẵn.
Do đó, ngành cá tra Việt Nam vẫn đang trên đà phát triển mạnh.
Ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản chia sẻ, người tiêu dùng Mỹ nói riêng và người tiêu dùng thế giới nói chung đang tăng nhu cầu sử dụng cá tra từ Việt Nam, nhưng nguồn nguyên liệu trong nước lại có hạn.
Vì vậy, đường đi của cá tra vẫn tiếp tục rộng mở. Cụ thể, xuất khẩu cá tra trong 9 tháng năm 2017 đạt hơn 1,3 tỷ USD, trong đó thị trường nhập khẩu cá tra mạnh nhất là Mỹ. Với đà tăng trưởng xuất khẩu như hiện nay, đến cuối năm 2017, xuất khẩu cá tra có thể đạt kim ngạch 1,7 tỷ USD, tăng 1,8% so với năm 2016.
Với những thị trường khác như Nga, Trung Quốc, Mexico… các doanh nghiệp cần đoàn kết hơn nữa trong việc niêm yết giá bán, tránh giảm giá bán, sẽ kéo theo giảm chất lượng, làm mất hình ảnh cá tra Việt Nam”, bà Nguyễn Thị Hồng Minh, Chủ tịch danh dự Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản chia sẻ.
Theo ông Nguyễn Hoàng Đạo, hiện tại các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cá tra Việt Nam đang hướng tới sản phẩm chất lượng cao để dễ dàng thâm nhập các thị trường “khó tính”, cũng là giải pháp nâng cao giá trị của cá tra Việt Nam. Bởi khi đã đáp ứng được tiêu chuẩn của những thị trường này, thì sản phẩm cá tra khẳng định thương hiệu dễ dàng và dễ cạnh tranh ở những thị trường khác.
Trên thực tế, việc nộp hồ sơ để Bộ Thương mại Mỹ xem xét lại thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm cá tra phi lê đông lạnh của Việt Nam kỳ 13 là một bước ngoặt mở ra hướng đi cho cá tra Việt Nam. “Khi phía Mỹ công bố mức thuế hợp lý, sẽ tạo cơ hội hơn nữa cho con cá tra nói chung và các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu cá tra vào thị trường tiêu thụ mạnh mẽ dù khó tính này”, ông Đạo cho biết thêm.
Nguồn: TTXVN Từ khóa: xuất khẩu, diễn biến, Mỹ, áp thuế, chống bán phá giá, cá tra, Việt Nam
Cá Tra Xuất Khẩu Tăng Giá – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam
Thống kê của chuyên trang thủy hải sản Undercurrent News cho thấy, từ mức giá tốt 2,75 USD/kg hồi tháng 3/2019, cá tra xuất khẩu của Việt Nam liên tục rớt giá. Quý IV/2019, mức giá FOB chỉ đạt 2,15 – 2,25 USD/kg. Mặc dù có tăng trưởng lên mức 2,25 – 2,35 USD/kg trong tháng 1/2020, nhưng dưới tác động của đại dịch COVID-19, giá cá tra xuất khẩu tiếp tục giảm xuống dưới 2,2 USD/kg và duy trì mức này từ tháng 2 đến hết quý II/2020. Dấu hiệu khả quan được ghi nhận từ đầu quý III, nâng mức giá bình quân cuối tháng 10 đạt 2,65 – 2,7 USD/kg.
Theo VASEP, giá cá tra nguyên liệu tại nhiều địa phương vùng ĐBSCL cũng bắt đầu tăng khoảng 5.000 – 6.000 đồng/kg so với hai tuần trước. Cụ thể, cá tra giống loại 30 – 35 con/kg tại Cần Thơ và các tỉnh lân cận hiện có giá 20.000 – 22.000 đồng/kg, trong khi trước đây chỉ 15.000 – 17.000 đồng/kg. Đồng thời, giá cá tra loại 0,7 – 0,8 kg/con tại Đồng Tháp đạt mức 21.800 – 22.500 đồng/kg, tăng 500 – 700 đồng/kg so với tuần trước. Giá cá tra bột cỡ 28 – 35 con/kg và 50 – 60 con/kg cũng tăng lên mức 22.000 – 24.000 đồng/kg, tăng 1.000 – 1.500 đồng/kg so với giữa tháng 10.
Theo Tổng cục Thủy sản, tính đến hết tháng 9, diện tích thả nuôi cá tra tại ĐBSCL đạt 4.968 ha, bằng 91% so cùng kỳ năm 2019, tổng sản lượng 9 tháng ước đạt trên 1 triệu tấn, bằng 93,6% cùng kỳ. Trong đó, diện tích nuôi và sản lượng thu hoạch tập trung ở 5 tỉnh trọng điểm là Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ, Bến Tre và Vĩnh Long.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Thuế Bán Phá Giá Cá Tra Việt Nam Tại Mỹ: Sự Phi Lý Khi Lựa Chọn Nước Tương Đồng Indonesia – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam trên website Nhahangchacangon.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!