Đề Xuất 6/2023 # Phân Biệt Các Loại Cá Ali Hồ Malawi: Mbuna # Top 14 Like | Nhahangchacangon.com

Đề Xuất 6/2023 # Phân Biệt Các Loại Cá Ali Hồ Malawi: Mbuna # Top 14 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Phân Biệt Các Loại Cá Ali Hồ Malawi: Mbuna mới nhất trên website Nhahangchacangon.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Trong hồ nước nước lớn thứ 3 Châu Phi, có nhiều cá nước ngọt hơn bất cứ nơi nào trên thế giới. Trong đó có 3 loại cá Ali mà chúng ta quan tâm là Mbuna – Auloncara – Haplochromis. Với người chơi, đôi khi chỉ nghĩ rất đơn giản, cứ cá Malawi là chúng ta có thể chơi chung một hồ được. Thực tế sẽ phức tạp hơn bạn tưởng đấy. Mặc dù bọn chúng cùng sống trong một hồ nước khổng lồ rộng 29.600km2 này, nhưng thói quen ăn uống và một số đặc điểm rất khác nhau, để có thể theo dõi chính xác hơn, bạn có thể nuôi tách riêng, hoặc nuôi chung với một bể cá đủ lớn.

Trong quá trình nuôi chung, bạn hãy lưu ý về các loại thức ăn cho chúng, việc cung cấp thức ăn không đúng có thể sẽ gây nên bệnh tật và chết chóc cho những cá thể trong hồ.

Thông thường mọi người hay nuôi Aulonocara (cá ali peacock) cùng với Haps (cá ali Haplochromis) hơn, vì chúng có chế độ ăn khá giống nhau, tập tính bơi lội nhiều trong nước cũng khá tương đồng, tuy nhiên, bạn vẫn cần nhiều đá và hang động trong bể. Loại thứ ba là Mbuna (Cá ali mbuna), chúng ăn rêu tảo trong hồ là chủ yếu, nhưng vẫn cần các nguồn thức ăn phụ trợ.

Aulonocara Cichlids (Peacock):

Thường được gọi là cá ali Peacock, Cá ali Aulonocara có rất nhiều biến thể màu sắc khác nhau, phụ thuộc vào các vùng hồ khác nhau, đôi khi chỉ khác nhau một chút chút mà những người mới chơi không thể phân biệt nổi. Chúng cũng rất dễ lai tạo với nhau để tạo ra một màu sắc khác, nổi trội trong số này có dòng cá OB, một tuyệt phẩm. Về mặt kỹ thuật, đây là những con cá lai, tuy nhiên, qua thời gian chúng sẽ hình thành những dòng cá có màu sắc ổn định riêng.

Loài cá ali Aulonocara thường được tìm thấy ở các khu vực nhiều cát đá, bởi chúng thường “ăn cát”. Thế nào là “ăn cát”, chúng lơ lửng vài cm trên bề mặt cát bất động và theo dõi những chuyển động bề mặt nhỏ nhất, thông qua các phần nhạy cảm ở dưới đầu. Khi phát hiện con mồi, chúng sẽ lao xuống sục cát vào miệng và lọc ra con mồi.

Haps (Haplochromis)

Haps, một tên gọi dễ dàng hơn dành cho những loại cá Non- Mbuna thuộc về một chi khác lớn hơn đó là Haplochromis Hilgendorf.

Hầu hết cá Haps đều ăn mồi, khác với sở thích ăn chay của các bạn Mbuna. Tuy không phải tất cả cá Haps đều ăn thịt, nhưng nhìn chung là như vậy. Tuy nhiên, về độ hung hăng thì Haps vẫn còn thua các nhà sư Mbuna. Chúng có thân hình dài, thon, như những quả ngư lôi, và thường di chuyển trên tầng mặt. Hầu hết những con cá Haps nhỏ đều có màu xám với các sọc dọc, ngang. Khi trưởng thành, cá đực phát triển màu sắc rất rực rỡ, cá cái thì kém hơn rất nhiều.

Mbuna Cichlids

Mbuna là một nhóm lớn của Cichlids, chúng cư trú trong những bãi đá lớn dọc theo bờ hồ. Chúng ta thường nhìn thấy những nhóm lớn bơi lượn, tuy nhiên chúng không phải là một đàn. Vì ở hồ Malawi, mật độ 20 con cá trên 1 m2 không phải là hiếm. Cả 100 loại Mbuna bao gồm cả đực và cái của hồ Malawi đều có màu sắc khác biệt, tuy nhiên, chỉ có cá đực là có màu sắc đẹp và rực rỡ. Mbuna có cơ thể gần như nhỏ nhất, mặt chúng cũng có xu hướng hơi phẳng và ngắn hơn, để có thể dễ dàng ăn tảo ở các bề mặt đá.

Khách mua hàng vui lòng liên hệ: 0944948444 – 0983520387 – 0936996693

Khách mua Sỉ vui lòng liên hệ: 0943499444 – 0946285519

Tư vấn kỹ thuật: 0978918008 – 0978137069

Kiểm tra đơn hàng đã đặt vui lòng liên hệ: 024 6327 8080

Ngoài giờ hành chính vui lòng gọi: 0978918008

Trân trọng

Thái Hòa Aquarium

Văn Phòng & Cửa Hàng: Số 531 Hoàng Hoa Thám, Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam

Nhà Kho 1: Số 15 Vĩnh Phúc, Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam

Nhà Kho 2: Số 75 Vĩnh Phúc, Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam

Nhà Kho 3: Nhà D-72Ha, Vĩnh Phúc, Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam

Trại Koi 1: Số 175 Nguyễn Hoàng Tôn, Tây Hồ, Hà Nội, Việt Nam

Trại Koi 2: Tổ 7 Cự Khối, Long Biên, Hà Nội, Việt Nam

Lưu ý: Cần phải có JavaScript với nội dung này.

Phân Biệt Các Loại Thương Hiệu

Phân biệt các loại thương hiệu

1. Thương hiệu cá biệt (hay còn gọi là thương hiệu riêng)

Là thương hiệu từng chủng loại, hàng hoá cụ thể mà chúng ta thường được thấy hàng ngày, sữa Cô Gái Hà Lan, vỏ ruột xe Casuvina; hay Future, Super Dream là thương hiệu cá biệt của hãng Honda. Chúng ta hiểu những loại thương hiệu này là nhãn hiệu, điều này cũng không sai. Đặc điểm nhận dạng của thương hiệu này là nó mang một tính chất về hàng hoá nói chung một cách riêng biệt, khiến ta không nhầm lẫn với những “loại” khác. Ngày càng nhiều thương hiệu cá biệt xuất hiện trên thị trường, khiến mỗi khi tiêu dùng ta phải đau đầu lựa chọn. Riêng những nhãn hàng như Unilever, P&G có đến hàng trăm thương hiệu về những sản phẩm tiêu dùng hàng ngày. Nói về dầu gội đầu thì cũng có đến cả trăm (Dove, Sunsilk, Clear, Omo *đùa*,…).

Thương hiệu cá biệt thường nhắm đến một chức năng cụ thể nào đó, làm cho người tiêu dùng dễ dàng chọn lựa khi có hàng loạt những sản phẩm cùng chức năng để so sánh. Ví dụ như: dầu gội “trị gàu” có Clear nhưng khi Head & Shoulders cũng là dầu gội trị gàu thì Clear được hiểu là dầu gội “trị gàu” “có tinh chất bạc hà the mát”; và mỗi lúc thương hiệu cá biệt sẽ chi tiết hoá để người dùng không thể nhầm lẫn sản phẩm của mình được.

2. Thương hiệu gia đình

Là thương hiệu nói về một nhóm sản phẩm “cùng chức năng” thuộc một công ty sáng chế ra. Ví dụ như hãng thuốc lá BAT (British American Tobaco) có nhiều thương hiệu cá biệt như thuốc lá 555, Craven A (thường gọi con mèo), Kent,… và trong những dòng thuốc lá đó lại nhiều thương hiệu khác như 555 Silver, 555 Gold,… Một ví dụ khác, sữa Vinamilk có nhiều loại: sữa đặc, sữa tươi, sữa đóng hộp,…. Loại thương hiệu này, thường những thương hiệu cá biệt đều có mẫu mã hoặc logo khác nhau.

Những thương hiệu gia đình ở Việt Nam đa số gắn liền với tên của doanh nghiệp, cũng hay được gọi là thương hiệu doanh nghiệp.

Một loại khác của thương hiệu gia đình là những sản phẩm đặc tính địa lý vùng miền xác định rõ, như Yến sào Khánh Hoà, nước mắm Phú Quốc, bún bò Huế,… Những thương hiệu gia đình mang địa lý chung như thế này thường không nói rõ một nhà sản xuất nào, mà nó như là một địa danh chung để nói về sản phẩm đó.

3. Thương hiệu tập thể

Một loại khác của thương hiệu là thương hiệu tập thể, là một nhóm sản phẩm đa dạng về chức năng. Ví dụ như thương hiệu Samsung, ta biết Samsung làm rất nhiều lĩnh vực khác nhau từ điện thoại đến máy giặt, máy lạnh, tủ lạnh,…. Mỗi sản phẩm của thương hiệu này đều có logo chung, khác với thương hiệu gia đình.

Thường thương hiệu tập thể được xây dựng trên dạng tập đoàn lớn, xuyên quốc gia (Panasonic, LG, Sony,…) làm đa ngành nghề nhưng có chung một thương hiệu. Về loại thương hiệu này đòi hỏi người quản lý phải quản lý rất chặt chẽ tới những mảng kinh doanh của mình, vì khi có lỗi trong một sản phẩm của nhãn hàng bất kỳ đều gây ảnh hưởng chung tới toàn thương hiệu, nhưng bù lại khi tung ra sản phẩm mới hoặc ngành hàng mới đều dễ tiếp cận với người tiêu dùng thông qua danh tiếng đã gầy dựng sẵn.

4. Thương hiệu quốc gia

Loại thương hiệu này gần như gắn liền chung với quốc gia đó, gắn liền lợi thế cạnh tranh quốc gia đó. Ví dụ hàng điện tử Made in Japan khiến người ta nghĩ tới độ bền, chất lượng cao không quan trọng là nó được sản xuất từ nơi nào trên thế giới. Thương hiệu quốc gia mạnh phản ánh mức độ quan trọng trong nền kinh tế chung của thế giới.

Kết luận:

Phân biệt các loại thương hiệu đơn giản chỉ để hiểu mức độ cá biệt hoá sản phẩm.

Cá biệt càng rõ thì ảnh hưởng càng lớn, có khi lại phải loại bỏ thương hiệu hoặc thay thế bằng thương hiệu khác.

Phân Biệt Các Loại Cá Hồi Và Giá Trị Dinh Dưỡng Của Chúng

Thái Bình Dương là ngôi nhà của 6 loại cá hồi nổi tiếng. Bạn có biết sự khác biệt giữa 6 loại này?

Cá hồi Chinook – Vua của các loại cá hồi (Chinook/King Salmon)

Cá hồi Chinook còn được gọi là cá hồi vua. Bởi nó có hương vị ngon nhất trong tất cả các loại cá hồi. Cá hồi vua còn có lượng chất béo có lợi rất cao, nhiều thịt nhất. Thịt của chúng thường có màu trải dài từ trắng đến đỏ.

Cá hồi Chinook có giá trị cao vì chúng rất hiếm so với các loại cá hồi Thái Bình Dương khác sống dọc phần lớn duyên hải Thái Bình Dương.

Cá hồi Coho/Cá hồi bạc (Coho/Silver Salmon)

Cá hồi Coho còn được gọi là cá hồi bạc bởi chúng có lớp da hai bên óng ánh như bạc. Thịt của chúng có màu đỏ tươi, nhiều vết cắt hơn thịt của cá hồi vua nhưng hương vị của hai loại cá hồi này khá giống nhau.

Trong giai đoạn sinh sống ở đại dương, cá hồi Coho có hai bên màu bạc và lưng màu xanh đậm. Trong giai đoạn sinh sản, hàm và răng của cá hồi Coho trở thành móc. Sau khi vào nước ngọt, hai bên thân của chúng chuyển sang màu đỏ sáng. Đầu và lưng có màu xanh lá cây hoặc nâu, có đốm đen. Phần bụng cũng trở nên tối màu hơn.

Cá hồi hồng/Cá hồi lưng gù (Pink/Humpies/Humback Salmon)

Cá hồi hồng là chủng loại phổ biến nhất và nhỏ nhất trong các loại cá hồi Thái Bình Dương. Thịt của chúng có màu rất sáng và đậm vị, ít chất béo. Cá hồi hồng thường được đánh bắt, sản xuất thành cá đóng hộp. Ngoài ra, chúng còn được bán tươi, đông lạnh hoặc hun khói. Cá hồi hồng còn được gọi là cá hồi lưng gù bởi trong quá trình di cư sinh sản, con đực phát triển một vết bướu rõ ràng trên lưng.

Cá hồi đỏ (Red/Sockeye Salmon)

Cá hồi đỏ nổi tiếng với thịt tươi, có màu đỏ cam và rất thơm ngọt. Đây cũng là loại cá hồi có thịt ngon nhất.

Cái tên “cá hồi đỏ” còn bắt nguồn từ việc khi chúng bơi ngược dòng về phía sông nơi chúng xuất phát để sinh sản, thân chúng dần chuyển sang màu đỏ. Còn phần đầu có màu xanh lục.

Cá hồi Đại Tây Dương (Salmo Salar/Atlantic Salmon)

Cá hồi Đại Tây Dương sống chủ yếu ở vùng Bắc Đại Tây Dương Dương và ở các con sông chảy vào Đại Tây Dương ở phía bắc. Chúng có mặt ở Bắc Thái Bình Dương là do con người du nhập.

Phần lớn cá hồi Đại Tây Dương trên thị trường hiện nay đều được nuôi công nghiệp. Tuy nhiên, chúng không có nhiều chất béo có lợi và Omega-3 bằng cá hồi tự nhiên.

Cá hồi chó/Cá hồi chum (Silverbrite/Chum/Keta/Dog Salmon)

Sở dĩ loại cá hồi này được gọi là cá hồi chó là vì chúng có bộ răng giống với răng chó. Loài này có phạm vi phân bố rộng nhất trong các loài cá hồi Thái Bình Dương. Nhưng chúng có kích thước khá nhỏ. Thịt của chúng có màu nhạt. Lượng chất béo có lợi cũng ít hơn các loại cá hồi khác. Cá hồi chó thường được đóng hộp hoặc đông lạnh.

Tiếp Thị Gia Đình

Theo: The Spruce Eats

Phân Loại Các Dòng Cá Betta

Phong trào chơi cá betta phát triển mạnh vài năm gần đây kéo theo vô số người yêu thích và nuôi dưỡng loài cá xinh đẹp này. Vấn đề ở chỗ “cá betta” là một thế giới vô cùng đa dạng khiến người mới tham gia khó phân biệt hay hiểu rõ sự quan hệ giữa các dòng và loài cá betta khác nhau. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ giới thiệu sơ lược về đặc điểm của từng dòng hay loài nhằm giúp các bạn có khái niệm cơ bản về chúng.

Ở đây, từ “cá betta” được hiểu theo hai nghĩa:

– Cá betta tức Betta splendens thuần dưỡng và những dòng cá phát xuất từ đó bao gồm cá đá Xiêm, cá đuôi dài, cá halmoon, đuôi kép, đuôi tưa…

– Cá betta tức chi cá Betta bao gồm Betta splendens hoang dã và gần 70 loài cá họ hàng khác.

Cách phân loại như vậy không chỉ phản ánh khái quát toàn bộ thế giới cá betta mà còn thể hiện xu hướng của thị trường cá cảnh nói chung. Sơ đồ phân loại như sau:

Cá betta hoang dã được người Thái thuần dưỡng với mục đích chiến đấu cách đây hàng trăm năm với kết quả là màu sắc, hình dạng và kỹ năng chiến đấu khác xa so với cá hoang dã. Loại cá đá thuần dưỡng hay cá Xiêm đã du nhập vào nước ta từ cả trăm năm nay, nếu các bạn đọc bài “Thú chơi cá thia thia” của cụ Vương Hồng Sển thì sẽ thấy cá Xiêm đã xuất hiện ở nước ta từ hồi đầu thế kỷ hai mươi. Ngày nay, cá đá đã lan rộng và trở nên phổ biến ở hầu hết các quốc gia Đông Nam Á và cả Âu-Mỹ, nhất là trong các cộng đồng người châu Á sống ở đó. Có ba loại cá đá:

Cá đá tuyển (selective Siamese fighting fish): là những con cá đá bậc nhất, đã được lai tạo, tuyển chọn và huấn luyện gắt gao để tham gia vào trường đá cá. Người chơi cá ở ta thường gọi là “cá độ”.

Cá đá thường (Siamese fighting fish): là những con cá đá bình thường và phổ biến; chúng có thể là cá đá tuyển không đủ chất lượng tham gia vào trường đấu và bị loại, hay cá được lai tạo không kiểm soát chất lượng với mục đích thương mại…

Cá đá lai (hybrid): là cá lai giữa cá đá thuần dưỡng với cá hoang dã. Ở một số vùng, hoạt động đá cá hoang dã phổ biến hơn đá cá Xiêm vì cá hoang dã phân định thắng thua rất nhanh và mau “thành độ”. Một số người “chơi ăn gian” bằng cách lai cá hoang dã với cá Xiêm sao cho cá con có bề ngoài trông giống hệt với cá hoang dã (“lai biệt dạng”). Cá lai thừa hưởng độ bền của cá Xiêm nên nếu đem đi đá với cá hoang dã thuần thì sẽ có nhiều khả năng thắng độ hơn.

Trong ba loại kể trên thì cá đá thường hay cá Xiêm là loại phổ biến và rẻ tiền nhất, bạn có thể tìm mua cá Xiêm ở hầu hết các tiệm bán cá cảnh địa phương. Vào mùa hè, trẻ em thường mua cá Xiêm về đá với nhau hoặc để ngắm cho vui. Cá đá tuyển hiếm hơn, nếu muốn mua thì bạn phải tìm đến những lò cá độ và tất nhiên giá cả cũng cao hơn cá đá thường rất nhiều. Ngày nay, cá đá tuyển ở ta được lai với cá đá tuyển ở các nước lân cận như Thái Lan, Malaysia và Indonesia để cải thiện và đa dạng hóa kỹ năng chiến đấu. Dạng cá lai rất hiếm, tôi từng nghĩ ngày nay không còn ai đá cá lai nữa nhưng hồi đầu năm về Hậu Giang đi bắt cá lia thia có nghe người bạn ở đó thắc mắc không hiểu tại sao cá lia thia mua ở tiệm bán cá trong chợ đá dữ không thua cá Xiêm. Tôi cho rằng đó chẳng qua là “cá lai biệt dạng” mà thôi dù không có cách gì kiểm chứng.

Cá đuôi voan (veiltail): vào năm 1960, nhà lai tạo người Mỹ Warren Young thành công trong việc tạo ra những con cá betta có vây cực dài. Young gọi cá betta của ông là “Libby” theo tên của vợ ông. Những con cá này được bán cho người yêu thích cá cảnh ở khắp nơi trên thế giới và cho cả các trang trại cá cảnh ở châu Á. Bước phát triển này dẫn đến việc hình thành dạng cá đuôi voan rất phổ biến sau đó.

Ngoài ra, trong quá khứ từng có một số dòng cá cũng xuất phát từ cá đuôi dài như cá đuôi quạt (roundtail) và cá đuôi át bích (spadetail) nhưng ngày nay cùng với cá đuôi dài và đuôi voan, chúng hầu như biến mất khỏi thị trường vì cạnh tranh không lại với những dòng betta cảnh hiện đại khác.

Cá đuôi kép (doubletail): cũng xuất phát từ bầy cá của Warren Young vào những năm 1960 (có người cho rằng cá đuôi kép xuất hiện trong bầy cá nhập từ Đông Nam Á). Cá đuôi kép có hai thùy đuôi và vây lưng to tương đương với vây hậu môn. Cá đuôi kép đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện vây lưng cho các dòng betta cảnh hiện đại.

Ảnh dưới : Đuôi Voan và Đuôi Kép

Cá đuôi delta: vào cùng thời điểm, nhà lai tạo người Đức, tiến sĩ Eduard Schmidt-Focke lai tạo ra con cá delta đầu tiên tức cá betta với dạng đuôi đối xứng hình tam giác. Điều thú vị đó là dạng đuôi delta vốn được dùng để gọi những con cá bảy màu có đuôi hình tam giác. Cá đuôi delta đánh dấu bước tiến bộ hết sức quan trọng trong quá trình phát triển của betta cảnh hiện đại, chúng có cạnh đuôi thẳng thay vì uốn cong theo hình dạng của đuôi. Ngày nay đuôi delta được định nghĩa là đuôi có góc xòe < 160 độ.

Ảnh dưới : Delta và Super Delta

Cá đuôi tưa (crowntail): dạng đuôi này ra đời vào năm 1997. Một nhà lai tạo người Indonesia tên là Ahmad Yusuf đã trình làng cá đuôi tưa với những tia vây kéo dài và nhô ra khỏi màng vây (nói một cách chính xác là màng vây bị triệt thoái). Tùy theo mức độ triệt thoái của màng vây và hình dạng của tia vây mà người ta chia cá đuôi tưa thành nhiều loại khác nhau như tia đơn, tia đôi, tia hai đôi, tia chéo…

Các nhà lai tạo thường lai dòng cá của mình với dòng cá khác để cải thiện một đặc điểm nhất định, chẳng hạn cho lai với cá đuôi kép để cải thiện vây lưng hay lai với cá halfmoon để có cạnh đuôi sắc và góc đuôi xòe rộng 180 độ. Ngày nay, các dòng cá trên thực tế là sự pha trộn của nhiều dòng cá nguyên thủy khác nhau. Và sẽ không có gì ngạc nhiên khi trong bầy cá halfmoon xuất hiện cá đuôi delta, superdelta, OHM, đuôi hoa, đuôi kép và thậm chí cả đuôi tưa!

Như mô tả ở trên, tất cả những tiến bộ quan trọng trong việc phát triển dòng cá đuôi dài ở thế kỷ trước đều diễn ra bên ngoài Thái Lan, tuy nhiên rất nhiều nhà lai tạo và kinh doanh cá betta cảnh nổi tiếng hiện nay lại là người Thái. Chúng ta nên hiểu rằng các nhà lai tạo Thái đã nhập khẩu những con betta cảnh tốt nhất từ nước ngoài về, phát triển và sản xuất hàng loạt với chất lượng cao.

Plakat cảnh là xu hướng mới xuất hiện vài năm gần đây, khoảng từ năm 2000. Plakat cảnh là sự kết hợp giữa cá đá đuôi ngắn truyền thống với cá betta đuôi dài. Tác giả Precha gọi loại cá lai giữa cá Xiêm, cá hoang dã với cá betta cảnh đuôi dài là “cá lai hiện đại” hay “cá betta đặc sắc” (fancy betta). Theo ông, cá betta đặc sắc mang nhiều yếu tố di truyền của loài Betta smaragdina dòng ghi-ta với bộ vây to hơn so với cá Xiêm thường và đuôi có chóp nhọn hình con át bích. Nhận định này có phần nào đúng trên thực tế vì một số cá betta đặc sắc dù mang đủ màu sắc như cá betta cảnh đuôi dài nhưng đuôi lại to và có chóp nhọn.

Cá betta đặc sắc có thể nói là đại diện cho luồng ảnh hưởng mới từ Thái Lan ra thế giới bên ngoài kể từ sau khi cá Xiêm đuôi ngắn và cá Xiêm đuôi dài được giới thiệu với thế giới cả trăm năm trước. Ngày nay, nó là một thể loại dự thi trong các cuộc triển lãm cá betta dưới tên plakat cảnh truyền thống tức traditional show plakat, hay ngắn gọn hơn là traditional plakat (ở ta, mọi người còn gọi ngắn gọn hơn nữa là “plakat”, cách gọi này có thể gây nhầm lẫn với dòng plakat đích thực tức cá chọi, cá đá, cá Xiêm tuyển hay cá Xiêm thường).

Ảnh dưới : Betta smaragdina dòng ghi-ta (nguồn http://plakatthai.com) và plakat cảnh truyền thống (nguồn www.dong2002.com).

Các cuộc triển lãm nói chung không phân biệt cá plakat cảnh truyền thống (tức betta đặc sắc) với cá Xiêm bình thường. Vì vậy về nguyên tắc, bạn có thể mang cá Xiêm đi dự thi thể loại plakat truyền thống nhưng chắc chắn sẽ không thể đoạt giải vì bộ vây kém phát triển hơn. Plakat cảnh truyền thống xuất hiện và tác động đến thế giới betta cảnh ở một số khía cạnh:

– Cá plakat hầu như không bị mắc các tật thường thấy ở cá betta cảnh đuôi dài như tự cắn đuôi, sụp đuôi, rách đuôi, thối đuôi… tóm lại chúng rất dễ nuôi và chăm sóc.

– Cá plakat có tuổi thọ “phong độ” dài hơn. Cá cảnh đuôi dài như halfmoon thường rất đẹp ở độ tuổi từ 3 đến 9 tháng, sau đó cá bị lão hóa và không được đẹp như trước nữa dù tuổi thọ “sinh học” vẫn còn. Cá đuôi tưa còn khó nuôi hơn hơn nữa, các tia vây kéo dài rất dễ bị xoăn, vênh nếu không chăm sóc kỹ.

– Cá plakat có thân hình đẹp hơn nhiều so với cá betta cảnh đuôi dài. Theo tôi đây là một đặc điểm quan trọng mà các nhà lai tạo phương Tây vốn quá chú trọng vào vây và màu sắc đã bỏ qua. Tôi muốn nói với những bạn hữu yêu thích cá betta rằng thân hình và thần thái của cá betta cũng hết sức quan trọng, theo tôi cá betta cảnh trông phải thật oai phong hùng dũng; điều mà bạn vẫn thường thấy ở cá đá tức plakat.

Đây là con Mustard Gas nổi tiếng của Jude Als với 3 viền màu độc đáo: màu xanh trên thân, màu vàng và màu khói ở đuôi (nguồnwww.bettysplendens.com). Cá này có dạng “bản mè” tức giống như con cá mè với đầu nhỏ, bụng to và gốc đuôi nhỏ. Dạng “bản mè” rất phổ biến ở cá betta cảnh đuôi dài và trông không được mạnh mẽ như các dạng thân khác ở plakat như “bản rô” và “bản lóc”.

Plakat cảnh truyền thống: là cá lai giữa cá Xiêm, cá hoang dã và cá betta cảnh với đủ loại màu sắc khác nhau. Các vây lẻ to hơn so với cá Xiêm nhưng nhỏ hơn nhiều so với cá betta cảnh đuôi dài. Đuôi có thể xòe đủ 180 độ nhưng cạnh đuôi tròn, tia sơ cấp ở gốc đuôi phân làm hai nhánh.

Plakat cảnh hiện đại: là cá lai giữa cá Xiêm với cá halfmoon với cái đuôi nhỏ như cá Xiêm nhưng hình dạng lại giống như cá halfmoon. Plakat cảnh hiện đại thường được gọi tắt là plakat hiện đại hay HMPK (halfmoon plakat). Đuôi xòe đủ 180 độ, cạnh đuôi thẳng, tia sơ cấp ở gốc đuôi phân làm bốn nhánh hoặc hơn.

Plakat đối xứng: plakat cảnh truyền thống và plakat cảnh hiện đại thừa hưởng một đặc điểm rất đặc trưng ở cá Xiêm đó là mỗi khi giương vây, đuôi của chúng hơi cong lên một chút về phía trước. Nếu kẻ một đường thẳng từ mắt cho đến giữa gốc đuôi thì nó sẽ chia đuôi ra làm hai phần không bằng nhau; do vậy mà hai loại trên được gọi là plakat bất đối xứng. Ngược lại, cá halfmoon không hề cong đuôi lên khi giương vây nên hoàn toàn đối xứng. Quá trình lai tạo giữa cá Xiêm với cá halfmoon không chỉ tạo ra cá plakat bất đối xứng tức HMPK mà còn tạo ra một số plakat không cong đuôi như halfmoon; vậy là thể loại plakat đối xứng ra đời. Cấu tạo đuôi của plakat đối xứng cũng tương tự như plakat cảnh nhưng viền của ba vây lẻ phải làm thành một vòng cung như ở cá halfmoon. Do vậy, vây bụng và vây hậu môn ở cá plakat đối xứng thường rất ngắn.

Ảnh dưới : Plakat cảnh và plakat đối xứng (vây bụng và vây hậu môn con plakat đối xứng này chưa đạt vì hơi dài) (nguồn www.bettas4all.nl).

CÁ BETTA KHỔNG LỒ ( GIANT )

Các nhà lai tạo Thái Lan đã lai tuyển chọn dòng cá này trong ba năm trước khi đem trưng bày tại triển lãm IBC vào năm 2002. Đây là xu hướng lai tạo tập trung vào kích thước thay vì màu sắc và dạng vây. Cá betta khổng lồ có kích thước 14-17 cm, gấp đôi so với cá betta bình thường . Hiện tại, cá betta khổng lồ đang được phát triển với những màu sắc và dạng vây khác nhau. Tuy nhiên, trái với mong đợi của nhiều người, cá betta với kích thước thật lớn lại không duy trì được màu sắc và sự linh hoạt vốn có của chúng. Mặt khác, để cá đạt kích thước tối đa, người nuôi cần duy trì một chế độ chăm sóc và dinh dưỡng đặc biệt. Đó là những lý do hạn chế sự phát triển của dòng cá này.

Ảnh dưới : Cá betta khổng lồ với kích thước gấp đôi so với cá betta bình thường (nguồn www.bettysplendens.com).

CÁ BETTA TAI TƯỢNG ( BIG EARS )

Đây là dòng cá mới nhất xuất hiện trên thị trường betta cảnh vài năm gần đây. Vây ngực của cá betta “tai tượng” rất phát triển, to gấp mấy lần so với kích thước bình thường. Được biết, dòng cá này xuất phát từ các nhà lai tạo Thái Lan Theerasak Supinpong và Ah Pak Nam từ năm 2008. Theerasak Supinpong cũng là người lai tạo betta “lavender” bởi vậy mà chúng ta thấy có nhiều cá lavender tai tượng trên thị trường. Betta tai tượng cũng xuất hiện trong các cuộc triển lãm cá cảnh do diễn đàn tổ chức từ năm 2010 nhưng chưa đoạt giải (bởi dẫu ấn tượng nhưng vây ngực to không hề được ưu tiên so với vây thường). Trên thế giới, có nhiều ý kiến quan ngại về khả năng bơi lội của dòng cá này.

( Mục này Hanoi Betta chỉ tóm tắt )

Hiện có đến gần 70 loài cá betta hoang dã phân bố ở vùng Đông Nam Á đã được phát hiện và mô tả. Chúng đã tiến hóa và thích nghi với những môi trường khác nhau, từ đầm lầy nước lợ ở Mahachai, đầm than bùn nước đen ở Selangor đến vùng nước cứng ở Krabi. Một số loài lại thích nghi với môi trường có dòng chảy nhất định và hành vi sinh sản cũng tiến hóa từ xây tổ bọt thành ấp miệng. Do vậy, nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu, các nhà khoa học đã chia các loài cá betta hoang dã thành nhiều nhóm nhỏ dựa trên những đặc điểm chung về hình thức sinh sản, địa bàn phân bố, hình dạng… tuy rằng trong mỗi nhóm có thể tồn tại một số ngoại lệ.

(Trái) Hình vẽ cá betta trưởng thành: i) sọc trước mắt, ii) sọc ở cằm, iii) sọc sau mắt, iv) sọc sau mắt thứ hai, v) sọc giữa, vi) sọc giữa thứ hai, vii) chấm ở gốc đuôi. (Phải) Những sọc ngang trên đuôi (cũng xuất hiện ở vây lưng và vây hậu môn) (Tan & Ng, 2005).

Bạn đang đọc nội dung bài viết Phân Biệt Các Loại Cá Ali Hồ Malawi: Mbuna trên website Nhahangchacangon.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!