Đề Xuất 6/2023 # Nuôi Cá Tra Bằng Thức Ăn Tự Chế # Top 14 Like | Nhahangchacangon.com

Đề Xuất 6/2023 # Nuôi Cá Tra Bằng Thức Ăn Tự Chế # Top 14 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Nuôi Cá Tra Bằng Thức Ăn Tự Chế mới nhất trên website Nhahangchacangon.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Nuôi cá tra bằng thức ăn tự chế

Hiện nay, người nuôi cá tra với mật độ cao thường cho cá ăn bằng thức ăn công nghiệp, cá nhanh lớn nhưng giá thành cao do chi phí thức ăn rất tốn. Vì vậy, nuôi cá tra bằng thức ăn tự chế là cách hữu hiệu để giảm giá thành.

Cá tra ăn tạp, rất nhanh lớn và rất dễ nuôi, trong điều kiện nuôi thâm canh chỉ 4-5 tháng là cá đạt trong lượng 1,0-1,2 kg. Cá nuôi lâu năm có thể đạt trọng lượng 10-12 kg/con nhưng vì không kinh tế nên người ta thường bán khi cá đạt trọng lượng 1,0-1,2 kg/con. Cá tra ăn nhiều loại thức ăn có nguồn gốc động vật và thực vật. Mùa vụ sinh sản của cá tra trong tự nhiên vào tháng 5-6 âm lịch hằng năm. Cá đẻ một lần trong năm, bãi đẻ thường trên phần sông MêKông thuộc địa phận Campuchia. Trước đây khi mà con cá tra chưa được sinh sản bằng phương pháp nhân tạo thì nguồn giống cá tra giống chỉ được bắt ở dưới sông, khu vực giáp ranh với nước bạn.Chuẩn bị ao nuôi: Ao nuôi cá cần gần nguồn nước ngọt để khi cần lấy nước và rút nước được dễ dàng. Ao có hình chữ nhật, diện tích ao nuôi có thể biến động từ vài công (mỗi công = 1.000 m 2) đến vài ha tùy theo khả năng nuôi và diện tích sẵn có, nhưng thích hợp nhất là từ 1.000-1500 m 2, chiều sâu 1,5-2,5 m. Bờ ao cần cao hơn đỉnh lũ cao nhất hằng năm 0,5 m nhằm tránh ngập lụt trong mùa lũ. Xung quanh ao đắp thêm bờ đất nhỏ cao thêm 20 cm để ngăn nước mưa tràn xuống làm đục nước ao ảnh hưởng đến hoạt động của cá. Mặt bờ cần trồng rau muống để ngăn sạt lở và làm thức ăn xanh cho cá.Cải tạo ao: Đối với ao đã có sẵn thì cần cải tạo lại ao trước khi nuôi. Cần rút cạn nước, vét bùn ở đáy ao, bón lót vôi khử trùng với lượng 10-15 kg/100 m 2 ao, phơi đáy ao 2-3 ngày, kết hợp dọn sạch cỏ bờ ao, lấp các lỗ mọi rò rỉ và ống bọng (cứ khoảng 200-300 m 2 ao cần một ống bọng lấy nước, đường kính 25-30 cm). Trên bờ ao cũng cần bón vôi với lượng tương tự như dưới ao để ngăn phèn rửa trôi xuống ao. Đối với ao mới đào thì cần phải tiến hành bón vôi theo bờ ao theo từng lớp đất 30-40 kg vôi bột cho 100 m 3 đất và bón đáy ao 20-30 kg/100 m 2. Khi cho nước vào ao cần xác định thường xuyên độ pH, bơm nước cũ bỏ đi và thay nước mới vào nếu thấy pH nước còn quá acid (tức nước bị nhiễm phèn, rất độc cho cá) cho đến khi nào thấy pH bằng 6 -7 mới thả cá con vào ao.Thả cá: Cá giống cần khỏe mạnh và có kích cỡ đều nhau để chúng cùng lớn sẽ tránh được trường hợp cá hại lẫn nhau, mật độ thả 5-7 con/m 2 ao. Thời vụ thả cá tốt nhất là từ tháng 7-9 thì cỡ cá giống từ 10-12 con/kg, nếu thả vào tháng 3-5 thì cá con cần lớn hơn (4-6 con/kg). Cá tra có thể nuôi ghép với các loài cá khác như cá hường, cá mè vinh, cá trê, tỷ lệ ghép là 5-10% tổng số đàn. Kinh nghiệm cho thấy là nuôi cá tra ghép với các loài cá khác sẽ cho hiệu quả kinh tế cao hơn do tận dụng được nguồn thức ăn. Khi thả cá động tác cần nhẹ nhàng tránh làm cá bị thương tổn.Cho cá ăn: Thời kỳ cá còn nhỏ, có kích cỡ từ 10-20 cm cá phát triển mạnh về chiều dài, chưa tích lũy mỡ nên cần cho ăn thức ăn chứa nhiều đạm (30%). Các loại thức ăn cho thời kỳ này là: cá vụn, đầu tôm, các sản phẩm loại của các nhà máy thủy hải sản xuất khẩu, cám, rau muống, bắp, khoai… Lượng thức ăn hằng ngày bằng 5-8% trọng lượng cá. Cần cho cá ăn bằng sàn ăn để biết lượng ăn của cá mà điều chỉnh. Đến thời kỳ cá lớn hơn, từ 25 cm trở đi, cá đã trở sang giai đoạn tích lũy mỡ và tăng trọng nhanh, hàm lượng đạm trong thức ăn thời kỳ này giảm xuống 15-20%. Cho cá ăn một lần/ngày và cần cho cá ăn đến no không ăn nữa thì thôi, thường là lượng thức ăn bằng 4-6% trọng lượng cá. Thành phần thức ăn của cá như sau; 20% rau xanh, 50% cám, 30% cá, ốc, hến, đầu cá… xay nhỏ (nguồn thức ăn động vật có thể trộn với muối để dự trữ cho cá ăn dần). Thức ăn được nấu chín, nhồi dẻo, cho ăn ở dạng viên. Hệ số thức ăn tự chế đối với cá tra trung bình từ 3-3,5. Do đó tùy theo tình hình giá cả thức ăn trên thị trường mà người nuôi có thể tự điều chỉnh cơ cấu thành phần thức ăn sao cho đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.Chăm sóc: Kiểm tra nước hằng ngày, nước bẩn sẽ làm cá kém ăn và chậm lớn, thông thường mỗi tuần cần thêm nước vào ao hoặc thay nước mới từ 20-30% lượng nước trong ao và cứ sau từ 1-2 tháng thì người ta nâng mực nước trong ao lên 0,5 m.Phòng bệnh: Cần chú ý những trận mưa đầu mùa, tốt nhất là không nên cho nước mưa này chảy qua bờ xuống ao nhất là với những ao mới đào sẽ làm cho ao bị nhiễm phèn. Pha loãng vôi bột trong nước và lấy nước vôi trong té đều lên mặt ao. Khi thay nước mới vào thì khử trùng nước ao. Phòng bệnh tiêu hóa cho cá bằng Sulphamid trộn với thức ăn: 10g dùng cho 1 tấn cá.

Nguồn: nongnghiep.vn

Vĩnh Phúc: Nghiên Cứu, Thử Nghiệm Thức Ăn Viên Tự Chế Cho Cá Tầm

Cá Tầm Siberian có tên khoa học là Acipenser baeri là loài cá có giá trị dinh dưỡng cao, rất được ưa chuộng trên thế giới. Chúng thích hợp sinh trưởng trong môi trường lạnh. Ở nước ta cá Tầm đã được nuôi thành công tại một số tỉnh vùng núi như Lào Cai, Lai Châu… Ở Vĩnh Phúc, cá Tầm đã được đưa vào nuôi từ năm 2008 – 2010 tại Tam Đảo, đây là nơi có khí hậu tương đối mát mẻ, rất thích hợp nuôi loại cá này.

Hiện nay, sản phẩm cá Tầm Tam Đảo đã có chỗ đứng trên thị trường và ngày càng được mở rộng. Tuy nhiên giá thành của cá tương đối cao do phải phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu thức ăn nhập ngoại từ nước ngoài. Do vậy nhu cầu cấp thiết đó là làm sao tìm ra được loại thức ăn phù hợp cho cá Tầm mà lại chủ động được nguồn nguyên liệu, giá thành rẻ. Từ lý do trên, năm 2014, Trung tâm Phát triển Lâm – Nông nghiệp Vĩnh Phúc đã thực hiện đề tài khoa học: “Nghiên cứu, thử nghiệm sản xuất thức ăn viên cho loài cá Tầm”.

Vĩnh Phúc: Nghiên cứu, thử nghiệm thức ăn viên tự chế cho cá Tầm

Đề tài đã tiến hành thử nghiệm nuôi 480 con cá Tầm cỡ cá 100g/con được chia làm 6 bể nuôi, mỗi bể thả 80 con. Trong đó, 4 bể được cho ăn bằng thức ăn tự chế và 2 bể cho thức ăn nhập ngoại (cám coppen 45% nhập khẩu từ Đức); số lượng cám sản xuất để phục vụ công tác nuôi là 1.000 kg, sau 3 tháng nuôi thu hoạch và so sánh kết quả giữa 2 loại thức ăn từ đó đánh giá hiệu quả chất lượng của cám tự chế.

Sau khi nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng của cá Tầm và nghiên cứu thành phần nguyên liệu: Tỷ lệ protein, chất khô, chất xơ của từng nguyên liệu được sử dụng trong công thức thì tiến hành phối trộn nguyên liệu theo tỷ lệ thích hợp để tạo ra sản phẩm phù hợp. Đề tài sử dụng 3 công thức dinh dưỡng (CT1, CT2) phối trộn thức ăn bằng phương pháp đùn viên cho cá Tầm của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I và trường Đại học Nông nghiệp I để thay thế thức ăn nhập ngoại; tùy theo kích cỡ và nhu cầu dinh dưỡng của cá Tầm vào từng thời điểm nuôi mà áp dụng thức ăn theo công thức phù hợp.

Qua 3 tháng chăm sóc và theo dõi, cùng số lượng 80 con/1 bể, mật độ thả ban đầu là như nhau, điều kiện nuôi và chăm sóc như nhau cho thấy: cá trong các bể đều có tỷ lệ sống cao, tăng trưởng và phát triển tốt, nhưng cá cho ăn bằng công thức tự chế CT1 cho sinh trưởng tương đương với cám ăn ngoại và lớn hơn cám công thức tự chế CT2, nguyên nhân là do hàm lượng đạm trong thức ăn tự chế CT1 và cám ngoại cao hơn trong thức ăn tự chế CT2. Cá thể cá lớn nhất nuôi bằng CT1 là 703g, CT2 là 652g, ở thức ăn nhập ngoại là 670g. Như vậy, với kinh phí để sản xuất cám tự chế là 38 triệu đồng/1 tấn thức ăn, trong khi đó cám coppen nhập ngoại là 48 triệu đồng/tấn thì cám tự chế CT1 đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn cả.

Sau một năm triển khai, bước đầu đề tài đã thành công, kết quả nuôi thử nghiệm và đánh giá khả năng sinh trưởng và phát triển của cá Tầm tại các mô hình đã tìm ra được loại thức ăn tự chế CT1 theo công thức phù hợp cho cá Tầm, đem lại năng suất cao nhất, hiệu quả kinh tế nhất, tận dụng được nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa phương, đảm bảo được việc chủ động nguồn thức ăn không phải phụ thuộc vào nhập ngoại và sự biến động giá cả của thị trường.

Giá Thức Ăn Cá Tra

Đăng giá Thủy Sản

Sau khi nhận được thông tin trong vòng 12 giờ xác nhận, giá của bạn sẽ được đăng lên.

Mô Hình Nuôi Cá Lóc Bằng Thức Ăn Công Nghiệp

Những năm gần đây, nông dân Bến Tre đã nuôi cá lóc nhưng còn nhỏ lẻ. Cá nuôi dễ mắc bệnh, tốn nhiều công lao động, giá thành cao, lợi nhuận thấp. Để khắc phục tình trạng trên, nông dân nên nuôi cá bằng thức ăn công nghiệp để đạt hiệu quả cao.

Môi trường nuôi ít bị ô nhiễm hơn, cá nuôi ít bệnh, công lao động giảm, mật độ nuôi dày hơn, giá thành đầu vào ổn định. Hiện nay, ở các chợ, cá lóc là nguồn thực phẩm chủ lực.

Một số giải pháp nuôi cá lóc như sau:

1/ Thiết kế ao nuôi:

Cá lóc sống và phát triển tốt ở vùng có độ mặn từ 0 đến 8%o. Ao nuôi cá lóc có diện tích đa dạng, nhưng tốt nhất từ 500 – 2.000m2, thiết kế theo hình chữ nhật để dễ thu hoạch sau này. Độ sâu chứa nước đảm bảo từ 2 – 2,5m. Đặc biệt, phải có hệ thống cống cấp và thoát nước tốt.

2/ Cải tạo ao nuôi:

Nếu là ao cũ thì vét hết bùn dơ đáy ao, bón vôi 8-15kg/100m2, nếu có điều kiện thì phơi ao từ 3-4 ngày. Sau đó, cho nước vào ao độ sâu 1m, chú ý nước lấy vào phải lọc, tránh cá lớn vào ăn cá con sau này, 3 ngày sau thì tiến hành thả cá giống. Khi thả cá xong, mỗi tuần cấp thêm nước từ 10-15cm cho đến khi đạt độ sâu qui định.

3/ Chọn giống và thả giống:

Để đảm bảo tỉ lệ sống và năng suất sau này, việc chọn mua con giống rất quan trọng, kích cỡ đạt từ 6-10cm, cá phải có kích cỡ đồng đều, khỏe mạnh, không dị tật. Trước khi thả cá, dùng muối ăn pha với nước 3% để tắm cá 3-5 phút. Nên thả cá lúc trời mát. Mật độ thả cá tùy thuộc ao nuôi, như độ sâu, vốn, theo kinh nghiệm, có thể thả từ 10-50con/100m2.

4/ Chăm sóc và quản lý:

a) Thức ăn và cách cho cá ăn:

Thức ăn cho cá lóc phổ biến là loại Cargill. UP, CP… Tùy theo kích cỡ cá mà chọn loại thức ăn có kích cỡ cho phù hợp. Tháng đầu cho cá ăn 3 lần/ngày (sáng, trưa, chiều). Từ tháng thứ hai trở đi, cho ăn 2 lần/ngày. Khi cho cá ăn, dùng cây gõ vào cầu tạo tiếng động cho cá gom lại. Nếu cá giống chưa quen thức ăn công nghiệp thì phải tập cho cá chuyển từ từ bằng thức ăn cá tạp sang thức ăn công nghiệp.

Cách làm như sau: Dùng sàng ăn bằng tre hoặc trúc, diện tích khoảng 1m2, khoảng cách nẹp tre cách nhau 1,5cm. Đặt cách bờ từ 4-5m, nổi trên mặt nước. Thức ăn là cá tạp còn tươi rửa sạch xay nhuyễn, mỗi lần cho ăn trộn vào 2-3% thức ăn công nghiệp, để nguyên cục bỏ trên sàng, cá tự động lại rỉa ăn. Cứ mỗi lần cho cá ăn thức ăn công nghiệp tăng dần lên, khoảng 10-15 ngày cá đã quen với thức ăn công nghiệp thì chuyển hẳn sang cho ăn thức ăn công nghiệp. Khi cho ăn, cần trộn thêm men tiêu hóa đường ruột và vitamin C giúp cá mau tiêu hóa và tăng sức đề kháng. Chú ý khi thả cá giống được 20 ngày mới tập cho cá ăn thức ăn công nghiệp, không nên tập sớm quá làm cá dễ bị mất sức.

b) Quản lý ao nuôi:

Hàng ngày, nên theo dõi khả năng bắt mồi của cá. Nếu cá giảm ăn hoặc ăn không tăng thì có vấn đề. Một là cá có dấu hiệu bị bệnh, hai là môi trường ao bị dơ, khí độc nhiều, oxy thấp. Kiểm tra màu nước của ao nuôi để có cách thay nước hợp lý. Thông thường, cá nuôi dễ mắc bệnh ghẻ, do đó phải theo dõi thật kỹ để phát hiện kịp thời. Khi phát hiện cá bị ghẻ, dùng thuốc IODINE nồng độ 1ppm tạt xuống ao. Nếu bị ít thì dùng thuốc 1 lần, nếu cá bệnh nhiều thì xử lý 2 lần. Mỗi lần cách nhau 5 ngày. Khi nuôi cá được 2 tháng, có thể dùng vi sinh định kỳ để xử lý đáy ao giúp giải phóng khí độc (vi sinh xử lý theo nhà sản xuất). Khi còn nhỏ, cá thường vào mé bờ, dễ bị chim, cò ăn nên cần có biện pháp giúp cá ít hao hụt (dùng lưới rào xung quanh mé mương). Khi cho cá ăn, nên rải thức ăn từ từ, tránh để thức ăn dư thừa.Theo dõi sự tăng trưởng của cá để có cách xử lý thích hợp.

5/ Thu hoạch:

Nuôi khoảng 5 tháng, cá đạt trọng lượng trung bình từ 2-3con/kg thì thu hoạch, cũng có thể để cá lớn hơn tùy theo thị trường tiêu thụ. Khi thu hoạch bằng rọ, tránh để cá bị xây xát, bảo quản cá sống lâu hơn. Nếu quản lý và chăm sóc ao nuôi tốt, thì hệ số chuyển hóa thức ăn từ 1 – 1,4kg được 1kg cá. Tỉ lệ sống trung bình từ 60 – 80%.

Võ Thành Cơn, Đồng Khởi, 25 / 10 / 2012 chúng tôi

Mô hình nuôi cá lóc bằng thức ăn công nghiệp

Gần đây, phong trào nuôi cá lóc thương phẩm ở Bình Thuận phát triển mạnh, mang lại hiệu quả kinh tế ổn định cho người dân địa phương. Tuy nhiên, đối với nghề nuôi cá lóc hiện nay, khó khăn lớn nhất là quản lý nguồn nước và nguồn thức ăn cá tạp tươi đảm bảo chất lượng và số lượng.

Vào mùa gió bấc (thường kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau) nguồn cá biển khan hiếm và giá lúc này cũng tăng cao nhiều so với vụ cá nam (thường kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9). Bên cạnh đó, Bình Thuận không phải là một tỉnh có nguồn nước ngọt dồi dào như các tỉnh miền Tây Nam bộ, do đó cá lóc chỉ phù hợp với một số địa điểm – nơi có nguồn nước ngọt dồi dào quanh năm – để thuận lợi cho việc thay nước hàng ngày trong ao cá.

Ngoài ra, việc cho ăn bằng thức ăn tươi sống gây ô nhiễm nhanh chóng nguồn nước trong ao, và để giảm thiểu tình trạng cá bệnh người nuôi phải thay nước hàng ngày hoặc cho nước vào ra liên tục trong ao. Một số vùng nuôi không có điều kiện nguồn nước thuận lợi, việc nuôi cá lóc trở nên rất khó khăn do cá thường xuyên bị bệnh, việc sử dụng các loại thuốc kháng sinh, hóa chất diệt khuẩn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người tiêu dùng. Bên cạnh đó, do chất lượng cá tạp phải đảm bảo tươi nên hàng ngày người dân phải đi mua cá về sau đó tiến hành sơ chế (rửa, xay hoặc chặt…) rồi mới cho cá ăn. Công việc này tốn nhiều thời gian, công sức và tiền của người dân.

Để góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình sản xuất của người dân, tháng 8/2011, Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư Bình Thuận đã thực hiện mô hình “Nuôi cá lóc bằng thức ăn công nghiệp” với quy mô 500m2 tại hộ ông Châu Minh Tâm, xã Vĩnh Hảo, huyện Tuy Phong. Mô hình nghiệm thu ngày 26/12/2011. Qua gần 4 tháng nuôi cá đạt cỡ trung bình 420g/con, tỷ lệ sống đạt 60%. Kết quả cho thấy cá lóc thích nghi tốt với điều kiện môi trường, nguồn nước khu vực nuôi. Cá lóc cũng thích nghi tốt với thức ăn công nghiệp và đạt tốc độ tăng trưởng tốt.

Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư Bình Thuận giới thiệu tóm tắt quy trình thực hiện như sau:

1. Chuẩn bị ao nuôi:

– Diện tích ao nuôi: 2.000-5.000m2. Diện tích lớn sẽ tương đối khó khăn trong việc quản lý và chăm sóc cá.

– Đối với ao mới phải súc rửa ao bằng cách cho nước vào ao ngâm khoản 2-3 ngày sau đó xả bỏ rồi tiếp tục cấp nước vào ngâm rồi xả bỏ. Tiến hành quá trình súc rửa trên ít nhất 2-3 lần trước khi thả giống để có môi trường ao nuôi ổn định cho cá phát triển.

– Đối với ao đã qua sử dụng: Xả cạn nước ao, súc rửa hoặc sên vét bùn cho sạch. Gia cố bờ, cống, lưới rào ao đề phòng địch hại như ếch, rắn, chim cò ăn cá. Chích điện hoặc dùng Saponin (10kg/1.000m2) để diệt cá tạp còn sót trong ao. Bón vôi với lượng tùy thuộc vào độ phèn của đất. Sau đó phơi ao 5-7 ngày thì cấp nước vào.

Đối với những ao phèn thì không tháo sạch nước để tránh xì phèn.

Nhu cầu bón vôi phù hợp với loại đất và pH đất:

– Cấp nước vào ao qua lưới lọc để tránh cá tạp và địch hại vào ao ăn cá. Mực nước cấp vào từ 0,6-0,8m. Gây màu nước bằng hỗn hợp cám gạo (1kg) + Bột đậu nành (1kg) hòa với nước ngâm qua đêm tạt đều cho 1.000m2. Ngày tạt 2 lần, tối ngâm thì sáng tạt, sáng ngâm thì chiều (16-17h) tạt. Bổ sung thêm mỗi ngày 2kg cá tạp nấu chín xay nhuyễn tạt đều ao để màu nước lên tốt hơn. Sau 2-3 ngày màu nước lên tốt thì tiến hành thả cá giống. Cũng có thể gây màu nước bằng nhiều cách khác như sử dụng phân hóa học, phân chuồng hoặc chế phẩm sinh học gây màu nước.

2. Thả giống:

– Mật độ nuôi: Cá lóc là đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao tuy nhiên chi phí cho vụ nuôi tương đối lớn, do đó tùy thuộc vào điều kiện nguồn nước, ao hồ và kinh tế gia đình mà người dân quyết định mật độ nuôi thưa hay dày. Thường cá lóc được nuôi ở mật độ 20-30con/m2. Ao có nguồn nước không thật thuận lợi thì chỉ nên nuôi mật độ thưa không quá 10con/m2.

– Mùa vụ thả giống: Do chủ động về nguồn thức ăn nên người nuôi có thể thả giống quanh năm, tùy điều kiện nguồn nước, nguồn giống và tính toán giá thành sau thu hoạch. Mùa vụ chính thả giống là từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm, lúc này nguồn cá giống và nguồn nước cũng dồi dào tuy nhiên giá thương phẩm sau thu hoạch thường thấp hơn so với vụ nghịch do sản lượng thu hoạch dồi dào từ nhiều địa phương.

– Chọn giống: Con giống đồng đều về kích cỡ, khỏe mạnh, màu sắc sáng đẹp, thân hình cân đối, không mang các dấu hiệu nhiễm bệnh. Tốt hơn hết người dân nên chọn mua tại các cơ sở sản xuất uy tín.

3. Thức ăn và cách cho ăn:

a. Trường hợp cho cá ăn bằng cám công nghiệp ngay từ nhỏ:

Do cá giống mới thả còn nhỏ, chưa quen với việc ăn bằng cám viên công nghiệp nên việc tập cho cá chuyển đổi loại thức ăn cần tiến hành theo các bước sau:

* Giai đoạn tập ăn 1: Tập cho cá quen với mùi vị thức ăn công nghiệp:

– Cá giống mới thả: Khẩu phần thức ăn hàng ngày bằng 10% trọng lượng đàn cá. Phối trộn theo tỷ lệ: 70% cá tạp tươi + 30% cám công nghiệp. Nếu là dạng cám bột thì trộn vào chung với cá tạp theo tỷ lệ trên rồi xay nhuyễn, trường hợp cám viên thì ngâm qua nước cho mềm sau đó trộn chung với cá tạp tươi rồi xay nhuyễn.

– Hỗn hợp thức ăn sau khi xay nhuyễn được cho vào sàng để cá vào ăn.

– Mỗi ngày tăng 10% lượng cám công nghiệp trong tỷ lệ phối trộn cho đến khi đạt tỷ lệ 50% cá tạp

+ 50% cám công nghiệp thì chuyển sang giai đoạn tập ăn cám viên.

* Giai đoạn tập ăn 2: Tập cho cá quen ăn thức ăn dạng viên:

– Sau khoản 5ngày tập, cá ăn quen với mùi vị cám công nghiệp thì tiếp tục tập cho cá ăn dạng thức ăn viên.

– Cách thực hiện: Trộn thêm 5% cám công nghiệp dạng viên (trong tổng lượng thức ăn cho cá ăn hàng ngày). Ban đầu cám nên được ngâm nước trước cho mềm rồi trộn chung với hỗn hợp thức ăn đã xay nhuyễn của giai đoạn tập ăn 1. Hỗn hợp thức ăn trên được rải xuống sàng để cho cá ăn. Ban đầu có thể cá chưa quen sẽ nhả các hạt thức ăn viên ra, trường hợp như vậy cần tập tiếp với tỷ lệ phối trộn như trên thêm 2-3ngày nữa cho đến khi cá không còn nhả các viên thức ăn ra nữa thì thôi.

– Những ngày sau đó thì lượng cám viên tiếp tục tăng lên 10%/ngày đồng thời thời gian ngâm nước cũng ngắn dần cho đến khi không ngâm nữa (cho cá ăn quen với thức ăn viên cứng). Khi thấy cá đã hoàn toàn quen với việc ăn thức ăn viên thì chuyển hoàn toàn sang cho ăn bằng thức ăn viên công nghiệp.

* Giai đoạn cho ăn hoàn toàn bằng cám viên:

– Từ tháng thứ hai đến khi thu hoạch: Cá đã ăn quen cám viên thì cho ăn hoàn toàn bằng cám viên. Khẩu phần thức ăn dao động từ 3-7% trọng lượng thân, tùy giai đoạn phát triển của cá. Do chất lượng của từng loại cám viên khác nhau vì vậy người dân nên cho ăn theo hướng dẫn của nhà sản xuất để đạt hiệu quả tốt nhất.

– Ở giai đoạn này thức ăn được rải trực tiếp xuống ao cho cá ăn, không còn cho ăn trong sàng nữa.

b. Trường hợp tập cho cá ăn bằng cám công nghiệp khi cần thiết:

Do tập tính tạp ăn của cá người dân hoàn toàn có thể chuyển đổi linh hoạt trong việc sử dụng thức ăn công nghiệp và cá tạp vào bất cứ lúc nào trong suốt vụ nuôi nhằm chủ động về nguồn thức ăn đồng thời giảm chi phí về thức ăn. Đối với cá đã nuôi thương phẩm trên 1tháng, việc tập cho cá chuyển sang ăn cám viên công nghiệp là tương đối dễ dàng, giúp người dân hoàn toàn chủ động về thức ăn cho cá. Bỏ cá nhịn đói 1ngày sau đó trộn cám viên đã ngâm nước với cá tạp đã xay nhuyễn theo tỷ lệ 70% cá tạp + 30% cám viên. Các bước thực hiện được tiến hành như giai đoạn tập ăn 2. Sẽ chỉ mất từ 3-5ngày để cá quen với việc ăn bằng thức ăn viên công nghiệp.

4. Chăm sóc và quản lý:

– Theo dõi tình trạng ăn mồi, thời tiết và sức khỏe của cá hàng ngày để tăng hoặc giảm lượng thức ăn cho phù hợp. Cho ăn theo hướng dẫn của nhà sản xuất, không cho ăn quá nhiều tránh tình trạng cá bị chướng bụng chết.

– Do cho ăn bằng cám công nghiệp nên môi trường nước cũng ít ô nhiễm hơn nhiều so với nuôi bằng cá tạp. Tuy nhiên, đối với vùng nuôi có nguồn nước ngọt ra vào chủ động thì cho nước ra vào ao thường xuyên hàng ngày để kích thích cá ăn mồi và phát triển. Đối với những vùng không có điều kiện nguồn nước dồi dào nên tiến hành thay nước 2-3 tuần 1 lần tùy tình trạng môi trường và sức khỏe cá trong ao, đồng thời định kỳ 7-15 ngày bổ sung chế phẩm sinh học giúp phân hủy chất thải, khí độc và ổn định môi trường ao nuôi.

Đảm bảo từng khâu trong quy trình khuyến cáo, mô hình có thể áp dụng được rộng rãi tại tất cả các vùng nuôi thủy sản nước ngọt trong tỉnh, góp phần giải quyết khó khăn trong việc quản lý nguồn nước và đảm bảo nguồn thức ăn cá tạp tươi trong quy trình nuôi truyền thống.

Việc sử dụng thức ăn công nghiệp thay thế cho thức ăn cá tạp trong quy trình nuôi cá lóc thương phẩm có nhiều ưu điểm so với quy trình nuôi truyền thống sử dụng thức ăn cá tạp:

– Không tốn nhiều công sức để đi mua và sơ chế trước khi cho ăn, giảm hẳn chi phí thuê nhân công.

– Nguồn cung cấp và chất lượng thức ăn luôn chủ động và ổn định.

– Giảm hẳn chi phí cho việc bổ sung các loại thuốc bổ giúp cá nâng cao sức đề kháng và tiêu hoá tốt do trong thức ăn công nghiệp các thành phần trên đã được tính toán phối trộn cẩn thận theo nhu cầu của cá.

– Ít gây ô nhiễm nguồn nước do đó giảm nhu cầu sử dụng nguồn nước và giảm tình trạng cá nhiễm bệnh do môi trường bị ô nhiễm mà không có nước thay.

– Giảm hẳn việc sử dụng kháng sinh và hoá chất trong quá trình nuôi.

– Thích hợp với những vùng nuôi xa nguồn cung cấp cá tạp và có nguồn nước không thật thuận lợi.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Nuôi Cá Tra Bằng Thức Ăn Tự Chế trên website Nhahangchacangon.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!