Cập nhật nội dung chi tiết về Nam Định: Thức Ăn Thủy Sản Greenfeed Mang Lại Hiệu Quả Kinh Tế Cho Mô Hình Nuôi Cá Trắm Đen mới nhất trên website Nhahangchacangon.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Nam Định: Thức ăn thủy sản GreenFeed mang lại hiệu quả kinh tế cho mô hình nuôi cá trắm đen
Xã Bạch Long là một trong những địa phương dẫn đầu huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định về sản lượng nuôi trồng thủy sản. Nhờ có hướng đi đúng đắn và tinh thần vượt khó vươn lên đã giúp nhiều hộ dân có cuộc sống khá giả hơn từ mô hình kinh tế nuôi cá trắm đen.
Để nuôi cá trắm đen đạt hiệu quả bền vững cần đổi mới phương pháp nuôi, đặc biệt là nguồn thức ăn cho cá. Theo khuyến cáo của trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư tỉnh Nam Định (Sở NN & PTNT), các hộ nuôi đã áp dụng giải pháp “Nuôi cá trắm đen sử dụng thức ăn công nghiệp thay thế thức ăn tươi sống”. Mục đích của giải pháp này nhằm thay đổi tập tính của loài cá trắm đen từ một loài chỉ sống ở tầng đáy và ưa thích ăn ốc, dắt biển sang sống ở tầng mặt và ăn thức ăn công nghiệp, qua đó chủ động nguồn thức ăn cho cá, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, hạn chế dịch bệnh, tăng năng suất và hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích nuôi.
Là một trong những hộ tham gia nhận khoán nuôi thủy sản trên vùng quy hoạch thủy sản của xã, trước kia là nông trường Cói Bạch Long, ao cá của anh Nguyễn Văn Minh có diện tích khoảng 3.500 m2, mật độ nuôi 0,35 con/m2, anh nuôi phần lớn là cá trắm đen, kết hợp thả ghép thêm cá trắm cỏ, cá đối, cá chép nhằm tận dụng nhiều tầng mặt nước và tạo thuận lợi trong việc quản lý môi trường ao nuôi. Anh cho biết, cá trắm đen là loài dễ nuôi, thịt chắc ngọt, có giá trị kinh tế cao và được thị trường ưa chuộng.
Quang cảnh thương lái thu mua cá nhộn nhịp tại trại của anh Minh
Để đàn cá phát huy tối đa năng suất và đảm bảo sức khỏe, anh Minh sử dụng thức ăn thủy sản 6136 của công ty GreenFeed. Vào giữa tháng 10, anh đã xuất bán gần 6,5 tấn cá các loại. Trong đó, riêng cá trắm đen loại 1, được thương lái mua với giá 117.000 đồng/kg. Kết quả hạch toán vụ nuôi, sau khi đã trừ các khoản phí về giống, thức ăn, thuốc thú y, điện nước, nhân công… anh Minh thu lãi trên 180 triệu đồng. Từ kết quả thu được, anh cảm thấy rất phấn khởi và đánh giá hài lòng về chất lượng thức ăn của công ty, anh sẽ tiếp tục sử dụng cho các vụ cá kế tiếp.
Xem video chi tiết (Người thực hiện: Trịnh Xuân Vĩnh – GreenFeed Hà Nam)
Hiệu Quả Kinh Tế Từ Mô Hình Nuôi Cá Bông Lau Trong Ao Đất
Cá bông lau là loài thuỷ sản có giá trị kinh tế cao, trước nay thường được khai thác chủ yếu trong tự nhiên. Mô hình nuôi cá bông lau trong ao đất bằng giống nhân tạo được triển khai ở xã An Thạnh Ba huyện Cù Lao Dung đã mở ra hướng mới để khai thác giá trị kinh tế của loài thuỷ sản này.
Tại xã An Thạnh Ba, huyện Cù Lao Dung, Dự án “Xây dựng mô hình nuôi cá bông lau trong ao đất”, do Sở Khoa học Công nghệ tỉnh Sóc Trăng phối hợp với Trường Cao đẳng kinh tế – kỹ thuật Cần Thơ thực hiện đã triển khai thí điểm tại 3 hộ dân, thả nuôi theo mật độ 2 con/m2 và 1 con/m2. Ao nuôi của hộ anh Lâm Thành Lâm ở ấp An Quới, xã An Thạnh Ba, một trong 3 điểm triển khai của dự án đã thả nuôi 4.000 con giống trong ao nuôi, với diện tích 2.000 m2. Ao nuôi có trang bị quạt nước tạo dòng chảy và đảm bảo lượng oxy.
Nguồn con giống nhân tạo được cung cấp từ Trung tâm quốc gia giống thuỷ sản nước ngọt Nam bộ, huyện Cái Bè tỉnh Tiền Giang. Con giống được thả nuôi từ cuối tháng 1/2018, kích cỡ dài từ 8 -10cm, sau 11 tháng nuôi, kiểm tra thực tế tại ao, cá đã đạt trọng lượng phổ biến từ 1kg đến 1,2kg/con. Một số ít đạt trọng lượng 1,4 ký đến 1,5 kg/con.
Tại buổi hội thảo đánh giá hiệu quả mô hình, các cán bộ dự án và bà con nông dân ở 2 xã An Thạnh Ba và An Thạnh Nam huyện Cù Lao Dung, đã trao đổi làm rõ tính hiệu quả của mô hình, chia sẻ kỹ thuật chăm sóc khi nuôi cá bông lau trong ao đất. Theo đó, kết quả nổi bật là cá nuôi có tỉ lệ hao hụt ít, dễ chăm sóc, tăng trọng nhanh, giá tiêu thụ trên thị trường đảm bảo hộ nuôi có lãi. Anh Lâm Thành Lâm, ấp An Quới, xã An Thạnh Ba, huyện Cù Lao Dung, cho biết: “Qua kết quả nuôi, tôi thấy loài này dễ chăm sóc, chí phí thức ăn và chi phí khác cho mỗi kg khoảng 60.000đ, giá bán trên thị trường giao động từ 80.000 đến 120.000 thì mỗi kg thu lời từ 20.000 đến 30.000 đồng/kg”.
Ao nuôi cá được trang bị quạt nước tạo dòng chảy và đảm bảo lượng oxy.
Điểm đáng chú ý là trong 7 tháng đầu thả nuôi, nước trong ao có độ mặn từ 2 đến 8 phần ngàn. Đây là điểm khác biệt về môi trường tự nhiên ở An Thanh Ba so với các vùng sinh thái khác, rất phù hợp với đặc tính sinh trưởng của cá bông lau. Tiến sĩ Nguyễn Quang Trung, Giảng viên Trường cao đẳng kinh tế-kỹ thuật Cần Thơ, Chủ nhiệm dự án cho biết: “Chúng tôi cũng có triển khai mô hình tại huyện Kế Sách toàn nước ngọt thì thấy, tại An Thạnh ba, 2/3 thời gian nuôi là nước lợ thì cá bông lau sinh trưởng tốt, tăng trọng nhanh”.
So với các giống loài thủy sản khác đã từng nuôi ở xã An Thạnh Ba, cá bông lau nuôi trong ao đất được các hộ tham gia mô hình thí điểm đánh giá có triển vọng về hiệu quả kinh tế. Ông Trần Thanh Nhã, ấp An Quới, xã An Thạnh Ba, huyện Cù Lao Dung, hộ tham gia mô hình, nói: “Cá này nuôi 11 tháng thì vô kg, chi phí nuôi khoảng 70.000đ, giá thị trường tiêu thụ khoảng 100 ngàn thì thu lãi mỗi ký 30 ngàn, so cá tra, cá lóc thì nó khá hơn”.
Mô hình nuôi cá bông lau trong ao đất giúp đa dạng giống loài trong nuôi trồng thủy sản của huyện Cù Lao Dung.
Năm 2018, nông dân Cù Lao Dung đã tăng diện tích nuôi thủy sản lên 3.500 ha; trong đó nuôi tôm 2.750 ha, nuôi các loài thủy sản khác 750 ha. Việc đa dạng giống loài thủy sản phù hợp điều kiện sinh thái, cho hiệu quả kinh tế đang được huyện rất quan tâm. Ông Đồ Văn Thừa, Phó Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cù Lao Dung, cho biết: “Việc thí điểm mô hình nuôi cá bông lau trong ao đất, giúp huyện có thêm lựa chọn về giống loài thủy sản cho nông dân phát triển sản xuất, phù hợp sinh thái vùng”.
Theo bà con nông dân, do là loại cá ngon nên thị trường tiêu thụ cá bông lau rất dễ dàng. Tuy nhiên, sức tiêu thụ chưa lớn, thương lái thu mua nhỏ lẻ, giá bán chưa ổn định, khả năng cho lãi nhưng chưa cao chính là những yếu tố bất lợi ảnh hưởng đến mô hình nuôi cá bông lau trong ao đất ở Cù Lao Dung.
Hiệu Quả Kinh Tế Từ Nuôi Cá Dĩa Sinh Sản
Hiện nay, trên thị trường cá cảnh, cá dĩa được chia làm hai loại, bao gồm cá tự nhiên và cá lai tạo. Cá dĩa có rất nhiều loại như cá dĩa đỏ, cá dĩa vàng, cá dĩa hoa văn, cá dĩa xanh – trắng, cá dĩa Albino… Tùy theo từng dòng, màu sắc, hoa văn mà mỗi loại cá dĩa sẽ có mức giá khác nhau, loại thấp nhất vài chục ngàn đồng, loại đẹp có thể lên tới vài triệu đồng một con.
Cá dĩa sinh sản nhiều lần một năm, thời gian sinh sản vào ban đêm, số lượng trứng mỗi lần đẻ không giống nhau, từ vài chục đến vài trăm trứng. Trung bình, cá dĩa đẻ khoảng 3 lần trong 2 tháng. Khi cá bố mẹ dựa gần giá thể, sẽ liên tục dùng miệng rỉa sạch bề mặt giá thể, đây là dấu hiệu mà người nuôi nhận biết thời gian cá chuẩn bị đẻ. Cá mẹ đẻ trứng trên giá thể lần lượt từ dưới lên trên, cứ đẻ xong một hàng, cá bố sẽ theo sau thụ tinh cho trứng. Trứng được thụ tinh có màu vàng nhạt.
Thông thường sau 60 giờ trứng sẽ nở. Sau 72 giờ, cá bột sẽ hấp thụ hoàn toàn chất dinh dưỡng trong túi noãn hoàng. Đồng thời, chúng bám trên cơ thể cá bố mẹ, hút chất dinh dưỡng tiết ra từ cơ thể cá bố mẹ. Sau khoảng một tuần, cá bột có thể tách khỏi cơ thể bố mẹ.
Nhiều hộ thả nuôi cá dĩa trên địa bàn chúng tôi chia sẻ, với mật độ 400 con/m3, quy cách giống 0,5 – 1 cm/con, thức ăn là trùn chỉ, tim bò. Tỷ lệ sống của cá đạt trên 50%, cá đạt kích cỡ 15 g/con (6 – 8 cm/con). Mô hình này đem lại lợi nhuận cho người nông dân hàng chục triệu đồng mỗi tháng.
Việc nuôi cá dĩa sinh sản ngày càng trở nên dễ dàng, khi người nuôi có nhiều cơ hội tiếp cận với khoa học – kỹ thuật hiện đại vào quá trình nuôi. Bên cạnh đó, thành phố cũng có nhiều chính sách khuyến khích, hỗ trợ người dân đầu tư phát triển nghề nuôi cá cảnh. Đặc biệt, tập trung phát triển nâng cao hoạt động nghiên cứu, lai tạo cá cảnh trong Khu nông nghiệp công nghệ cao và Trung tâm công nghệ sinh học chúng tôi để chuyển giao kịp thời những thành quả nghiên cứu tốt nhất đến các cơ sở sản xuất cá cảnh.
Thức Ăn Nuôi Cá Trắm Đen
Cá trắm đen nuôi từ 8 tháng đến 1 năm cho thu hoạch. Đàn cá lớn nhanh, giá bán trung bình khoảng 160.000 đồng cỡ 4 – 5kg/ con. Năng suất từ 10-11 tấn/ha cho lợi nhuận thu được trên 200 triệu đồng/ha. Có thể nói mô hình nuôi cá trắm đen đang là hướng đi nhiều tiềm năng cho bà con. Tuy nhiên để đạt năng suất như mong muốn, bà con cần nằm được thức ăn nuôi cá trắm đen cùng những kỹ thuật nuôi cá trắm đen cơ bản. Tổng hợp thông tin từ A đến Z được chúng tôi chia sẻ ở bài viết này.
1. Nuôi cá trắm đen trong ao nuôi
Chọn ao có diện tích từ 1000 – 3000m2. Đảm bảo nước có độ sâu của nước từ 2 – 2,5m. Ao nuôi thuận tiện cho việc cấp, thoát nước. Không gây ô nhiễm ra môi trường bên ngoài.
Bờ ao thiết kế chắc chắn, kè chắc đất. Đắp hết các lỗ hổng, hang hốc. Độ cao tối đa từ mặt nước tới bờ từ 0,5 – 0,6m.
Xung quanh bờ phát quang, không trồng cây to, bóng cây rậm rạp, tán che xuống dưới mặt nước, cản trở ánh sáng chiếu xuống mặt ao. Mặt khác, tán cây rậm, lá rơi xuống mặt ao thối rữa, gây ô nhiễm môi trường, hạn chế sự phát triển của nguồn thức ăn tự nhiên.
Do cá trắm đen cần lượng oxy cao hơn các giống cá khác nên để đảm bảo cá phát triển tốt nhất, bà con nên bố trí thêm máy phun mưa, trung bình 500m2 ao nuôi 1 máy. Như vậy sẽ tăng lượng oxy khuếch tán từ không khí vào trong nước cho cá.
Đáy ao tạo phẳng, nghiêng khoảng 0,5 – 1 độ về một phía cho dễ thoát nước.
Trước khi thả cá từ 7 – 10 ngày, tháo cạn nước ao, dọn cỏ, rong rêu, phát quang bờ.
Nạo vét lớp bùn ở đáy ao. Chỉ để độ dày trung bình từ 15 – 20cm. Không nên để quá dày. Nếu là ao mới đào thì thì cần tạo lớp bùn ở đáy thích hợp, có thể giữ lại lớp bùn bề mặt.
Phơi đáy ao khoảng từ 3 – 4 ngày để khử trùng, tiêu độc ở đáy ao. Bà con có thể bón phân để gây màu nước. Đồng thời kích thích tạo ra nguồn thức ăn tự nhiên, giảm phèn. Sử dụng 20 – 30kg/100m2. Nếu ao đã có lớp bùn tốt thì không cần bón phân.
Khi bơm nước vào ao, nên để lọc qua lưới mắt nhỏ để tránh tạp chất, cá tạp vào theo ăn tranh thức ăn của trắm đen.
Yêu cầu môi trường ao nuôi cá phải đạt các chỉ số sau:
2. Chọn giống và thả cá giống
Bà con nên mua giống ở nơi địa chỉ uy tín, đáng tin cậy. Chọn giống khỏe mạnh, kích cỡ đồng đều, không xây xát, không bị dị tật. Đặc biệt không mang mầm bệnh gây hại.
Kích cỡ con giống từ 30 – 50g/con. Hoặc có thể chọn mua giống có kích cỡ lớn hơn, từ 200 – 300g/ con.
Nuôi cá trắm đen thương phẩm, bà con có thể nuôi đơn hoặc nuôi ghép với một số giống cá khác. Nhưng cần tránh lựa chọn những con ăn tranh mồi của trắm đen. Bà con có thể chọn cá chép, cá mè, cá rô đồng…
Trước khi thả cả, nên tắm cho chúng trong nước muối pha loãng nồng độ 2% (tức là 2kg muối ăn pha với 100 lít nước). Hoặc ngâm chúng trong kháng sinh 30 ppm khoảng 10 phút. Như vậy sẽ loại bỏ được mầm bệnh, vi khuẩn gây bệnh trên người cá.
Thả cá vào sáng sớm hoặc chiều mát. Cho cả túi nilon đựng cá trong khoảng 10 phút để chúng thích nghi dần với môi trường nước. Sau đó mở miệng túi, cho cá bơi dần dần ra ngoài. Như vậy để chúng không bị sốc với nước ao nuôi.
3. Thức ăn nuôi cá trắm đen
Thức ăn nuôi cá trắm đen chủ yếu là ốc nhồi, ốc bươu, ốc sên, ốc vặn… Tuy nhiên không phải lúc nào lượng thức ăn này cũng phong phú. Do đó khi nuôi cá trắm đen thương phẩm, bà con cần chủ động sản xuất cám viên nổi nuôi cá bằng máy ép cám nổi thủy sản 3A. Phương pháp này giúp tiết kiệm từ 30 – 50% chi phí mua cám công nghiệp. Bà con cũng có thể chủ động lựa chọn, kiểm tra chất lượng, an toàn của thức ăn.
Hàm lượng thức ăn của cá trắm đen phải đảm bảo: 40% protein, 10% lipit ở giai đoạn nuôi cá giống. Còn giai đoạn nuôi cá thịt thương phẩm, hàm lượng protein là 35%, lipit là 7%.
Cám nổi tự sản xuất bằng máy ép cám nổi 3A có khả năng nổi trên mặt nước lâu, giúp cá dễ ăn, ăn hết, tránh lãng phí. Giảm nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nước. Ngoài ra cho ăn cám viên nổi cũng giúp bà con dễ dàng quan sát, điều chỉnh lượng thức ăn hợp lý với sức ăn của cả đàn.
Bà con có thể chủ động sản xuất cám nổi thủy sản hàng ngày. Vì thế không cần dự trữ quá nhiều thức ăn, tránh ẩm mốc, nấm, vi khuẩn, thối rữa. Khi đó vứt đi sẽ vô cùng lãng phí. Còn giữ lại cho cá ăn thì tăng nguy cơ sinh bệnh ở cá.
4. Quản lý chăm sóc trắm đen
Duy trì mực nước trong ao nuôi có độ sâu từ 1,5 – 2m. Khi cá phát triển trên 2kg, mức nước trong ao trên 2m. Thay nước mới hàng tuần nếu nước đổi màu, nhiễm bẩn. Đặc biệt là vào mùa hè, nắng nóng nước cạn nhanh, bà con nên chú ý mực nước.
Định kỳ kiểm tra tốc độ tăng trưởng của cả đàn, mỗi tháng 1 lần. Lấy ngẫu nhiên mẫu số 30 con để tính khối lượng trùng bình cả đàn. Khi bắt cá kiểm tra, tiến hành nhẹ nhàng, không làm chúng bị trầy xước.
Giai đoạn chuyển mùa, cá trắm đen hay mắc bệnh nhất. Để tăng sức đề kháng cho chúng, bà con có thể bổ sung thuốc Tiên đắc liều lượng 100/ 50 kg cá/ngày. Đem phối trộn với thức ăn ép thành cám nổi cho ăn liên tục trong 3 ngày.
Nếu cá có dấu hiệu bị bệnh, tăng liều lượng lên gấp 5 lần, cho ăn liên tục từ 5 – 7 ngày.
5. Một số bệnh thường gặp và cách phòng trị
Nguyên nhân do nguồn thức ăn kém chất lượng khiến chúng bị viêm và xuất huyết ruột.
Khi cá bị bệnh, cho chúng dùng kháng sinh Enrofloxacine trộn cùng với thức ăn với liều lượng 30-50mg/kg cá/ngày. Cho đàn cá ăn liên tục 5 ngày. Tăng cường sức đề kháng cho cá bằng cách dùng thêm vitamin C, liều lượng 1g/kg thức ăn. Cho trắm đen ăn 5-7 ngày 1 đợt.
Ngoài ra, cần chú ý đến nguồn thức ăn đầu vào. Đảm bảo sạch sẽ, không bị nấm mốc, ôi thiu, chất lượng thức ăn tốt.
Nguyên nhân do quá trình đánh bắt, vận chuyển khiến da cá bị sứt xát. Sau đó lại tiếp xúc với môi trường nước ô nhiễm, vi khuẩn, mầm bệnh gây hại. Dẫn đến mắc bệnh đốm đỏ.
Biểu hiện bị tuốt vảy, xuất huyết gốc vây, cơ thể chuyển màu tối, xuất huyết lỗ hậu môn, cá bơi kém, lờ đờ, chậm chạp.
Cách xử lý: dùng thuốc tương tự như với bệnh viêm ruột xuất huyết.
Bệnh thường xuất hiện khi thời tiết thay đổi. Đàn cá có dấu hiệu bỏ ăn, thiếu khí. Hoặc do trong môi trường nước sản sinh khí độc (vượt quá ngưỡng cho phép) khiến chúng bị ngạt.
Bà con dùng chế phẩm sinh học EM hoặc mật rỉ đường để cải tạo môi trường ao nuôi giảm khí độc. Mật rỉ đường được sử dụng phổ biến trong cải tạo môi trường ao nuôi tôm.
Ngoài ra, cần cung cấp kịp thời oxy cho nước, thay nước mới khi cần thiết.
Cá trắm đen phát triển nhanh. Nuôi từ 8 tháng đến 1 năm, đàn cá đạt kích cỡ trung bình từ 2,5 – 3,5kg/con. Cũng có những con vượt cỡ, đạt từ 5 – 6kg/con. Năng suất trung bình khoảng trên 10 tấn/ha/vụ.
Cá trắm đen được ưa thích chế biến các món lẩu, nướng… Do đó đánh bắt vào ngày nghỉ sẽ mang lại giá trị cao. Bà con có thể thu hoạch vào 30/4, 01/05, 02/09, ngày lễ tết cổ truyền…
Trước khi có thu hoạch cá 2 – 3 ngày, giảm lượng thức ăn. Ngày cuối dừng hẳn. Dùng vó/ lưới thu hoạch nhẹ nhàng, tránh làm trầy xước da.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Nam Định: Thức Ăn Thủy Sản Greenfeed Mang Lại Hiệu Quả Kinh Tế Cho Mô Hình Nuôi Cá Trắm Đen trên website Nhahangchacangon.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!