Cập nhật nội dung chi tiết về Kinh Bắc: Sống Khỏe Nhờ Giữ Trọn Chữ Tín – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam mới nhất trên website Nhahangchacangon.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Từng bước đi lên
Nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi Kinh Bắc được thành lập từ năm 2006, là đơn vị trực thuộc Công ty CP Tập đoàn DABACO Việt Nam – một trong những thương hiệu xuất hiện sớm nhất trên thị trường thức ăn chăn nuôi tại Việt Nam và là một trong 10 doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi lớn nhất cả nước.
Những ngày đầu khi mới đi vào hoạt động, Kinh Bắc cũng gặp không ít khó khăn, thách thức do quy mô chăn nuôi, nhất là chăn nuôi thủy sản còn manh mún, chưa được đầu tư đồng bộ; người tiêu dùng chưa có thói quen sử dụng thức ăn công nghiệp và vẫn tồn tại tâm lý chuộng thức ăn ngoại… Tuy nhiên, với quyết tâm cao của Ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ, nhân viên, Kinh Bắc đã từng bước khắc phục khó khăn, đưa hoạt động sản xuất dần đi vào ổn định và phát triển.
Giám đốc Nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi Kinh Bắc, ông Nguyễn Đình Toàn cho biết: “Nhiều năm qua, Nhà máy luôn đạt tốc độ tăng trưởng tốt, từ 10 – 15%/năm, doanh thu và lợi nhuận hàng năm tăng theo mục tiêu đề ra. Hiện nay, Nhà máy có hơn 500 đại lý phân phối tại các tỉnh, thành trong cả nước”.
“Bên cạnh đó, xác định rõ con người là yếu tố trung tâm, là giá trị cốt lõi của Nhà máy nên Ban lãnh đạo Kinh Bắc luôn đặt chính sách tổ chức, bồi dưỡng đào tạo lao động là yếu tố quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển. Theo đó, Kinh Bắc thường xuyên triển khai các lớp đào tạo về nghiệp vụ, chuyên môn để nâng cao tay nghề cho công nhân của Nhà máy. Ngoài ra, Kinh Bắc cũng tổ chức nhiều buổi tập huấn, hội thảo, giới thiệu những mô hình thành công… cho bà con nông dân nhằm chia sẻ kinh nghiệm và kỹ thuật mới, từ đó giúp bà con nâng cao năng suất, chất lượng vật nuôi và thủy sản”, ông Toàn cho biết thêm.
Nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi Kinh Bắc nằm tại Cụm công nghiệp Khắc Niệm, TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
Hướng đến bền vững
Những dòng sản phẩm của Nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi Kinh Bắc luôn cung cấp đủ thành phần dinh dưỡng phù hợp từng đối tượng, từng giai đoạn phát triển của vật nuôi. Các sản phẩm cho heo con, heo nái, heo thịt, heo hậu bị hay cho gà, vịt, chim cút, thỏ… đều được người tiêu dùng đánh giá cao. Dây chuyền sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm của Kinh Bắc hiện đang hoạt động với công suất 25 tấn/h, tương đương khoảng 150.000 tấn/năm.
Kho thành phẩm của Kinh Bắc tại Bắc Ninh
Không chỉ chú trọng các dòng sản phẩm thức ăn cho gia súc, gia cầm, Kinh Bắc còn phát triển cả những dòng sản phẩm cho vật nuôi thủy sản, nhất là thức ăn cho cá có vảy (rô phi, trôi, chép…), cá điêu hồng, cá da trơn (tra, basa…), cá hồi, cá tầm, cá biển…
Đối với dây chuyền sản xuất thức ăn thủy sản, dự kiến trong 2 năm 2013 – 2014, Kinh Bắc sẽ hoàn thiện hệ thống dây chuyền ép đùn và sấy Wenger (Đức) nhằm gia tăng giá trị dinh dưỡng, tăng độ bền của thức ăn trong nước, có kích cỡ viên khác nhau phù hợp với từng lứa tuổi, trọng lượng cá, từ cá giống đến cá thịt. Sang năm 2015, Kinh Bắc sẽ đảm bảo đạt năng suất tối đa 10 tấn/h, tương ứng khoảng hơn 60.000 tấn/năm, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về thức ăn thủy sản, giúp người chăn nuôi chuyển hướng từ nuôi trồng thủy sản theo phương pháp quảng canh sang công nghiệp, góp phần tăng nhanh sản lượng nuôi trồng thủy sản của Bắc Ninh và các tỉnh phía Bắc.
Dự kiến từ năm 2015, dây chuyền sản xuất thức ăn thủy sản của Kinh Bắc sẽ đảm bảo năng suất tối đa 10 tấn/h
Mặc dù có sự cạnh tranh rất lớn trong lĩnh vực sản xuất thức ăn chăn nuôi nhưng những sản phẩm của Kinh Bắc vẫn luôn giữ được vị thế cao và được người tiêu dùng tin tưởng chọn lựa do được sản xuất trên dây chuyền công nghệ cao, đạt tiêu chuẩn ISO, HACCP… giúp vật nuôi lớn nhanh, hệ số FCA (tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng) thấp, từ đó mang lại hiệu quả kinh tế cao nhưng vẫn đảm bảo giữ môi trường sạch.
Lấy chữ “Tín” làm đầu
Một yếu tố quan trọng góp phần tạo nên thành công cho Kinh Bắc chính là “giữ trọn chữ Tín”. Trong kinh doanh, nói giữ chữ “Tín” thì dễ, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng làm được điều này bởi muốn trung thành với nó sẽ phải mất đi rất nhiều, thậm chí có lúc phải chịu thiệt về doanh thu. Nhưng muốn làm ăn lâu dài, thì giữ chữ “Tín” lại chính là điểm mạnh để có những bước đi thành công bền vững.
Chữ “Tín” được Kinh Bắc thực hiện trước hết thông qua việc đảm bảo tiền lương, bảo hiểm và các chế độ cho người lao động. Song song với đó, Kinh Bắc còn tổ chức nhiều chương trình nhằm giúp đỡ những công nhân có hoàn cảnh khó khăn đang làm việc tại Nhà máy. Đồng thời, thường xuyên có các hoạt động giao lưu, kết nối, du lịch… để nâng cao tinh thần đoàn kết, học hỏi kinh nghiệm giữa các nhân viên, từ đó giúp nâng cao năng suất và hiệu quả trong công việc.
Đối với cơ quan quản lý, Kinh Bắc luôn minh bạch trong thực hiện chính sách thuế cũng như tuân thủ chặt chẽ các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm. Mặc dù chi phí kiểm soát chất lượng sản phẩm rất tốn kém nhưng Kinh Bắc vẫn duy trì chặt chẽ và đều đặn.
Trên thương trường, Kinh Bắc luôn lấy sự hài lòng của khách hàng làm thước đo cho sự phát triển. Cam kết cung cấp những sản phẩm chất lượng tốt nhất và luôn sát cánh cùng khách hàng để hợp tác lâu dài và phát triển.
Kg – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam
Hiện giá cá điêu hồng được thương lái tới tận bè thu mua với giá 41.000 – 42.000 đ/kg tùy theo loại cá và hình thức bắt cá. Với giá cá thời điểm này, người nuôi cá điêu hồng lồng bè vẫn còn lãi khoảng 11.000 – 12.000 đ/kg.
Ông Lê Minh Sang, nông dân nuôi cá bè ở xã Thới Sơn, TP Mỹ Tho (Tiền Giang) cho biết, mấy ngày nay các thương lái tới tận bè của nông dân thu mua cá điều hồng với giá 41.000 đ/kg nếu bắt cá bằng ghe đục. Đối với những thương lái bắt cá điêu hồng oxy (cá giữ trong bao ni lông chứa nước có bơm oxy), cá điêu hồng được thu mua với giá 41.500 – 42.000 đ/kg. Tính ra giá cá điêu hồng các loại đã giảm khoảng 2.000 đ/kg so với tuần trước.
Mấy ngày qua, nguồn cung cá điêu hồng tại bè tăng trở lại nên giá cá giảm nhẹ
Theo nhiều nông dân nuôi cá điêu hồng ở xã Thới Sơn, hiện giá thành sản xuất cá điêu hồng trên bè gồm con giống, thức ăn, thuốc thú y, nhân công… trong vòng 6 tháng nuôi cá bình quân khoảng 30.000 đ/kg. Năng suất bình quân mỗi bè nuôi cá điêu hồng thể tích 100 m3 ở địa phương này khoảng 5 tấn cá, nên sau khi trừ mọi chi phí sản xuất nông dân còn lãi từ 55 – 60 triệu đ/bè (tương đương 11.000 – 12.000 đ/kg cá). Thông thường mỗi nông dân nuôi cá bè ở Tiền Giang có từ 4 – 5 bè, thậm chí có tới cả trăm bè, vì vậy nếu chủ bè nào có cá bán trong thời gian gần đây sẽ có lãi hàng trăm triệu đồng.
Ông Nguyễn Văn Thành, một thương lái chuyên thu mua cá điêu hồng cung cấp cho thị trường Tp Hồ Chí Minh cho biết, nguyên nhân khiến giá cá điêu hồng giảm nhẹ trong mấy ngày qua là do nguồn cung cá điêu hồng nuôi bè ở Tiền Giang cũng như ở các tỉnh lân cận có dấu hiệu tăng trở lại. Nhiều chủ bè có cá tới lứa thu hoạch đồng loạt nên giá cá giảm chút đỉnh. Tuy nhiên, giá cá điêu hồng trong thời gian tới sẽ vẫn nằm ở mức cao trên dưới 40.000 đ/kg, do thị trường tiêu thụ cá điêu hồng hiện rất tốt và dịp Quốc Khánh 2/9 cũng đang đến gần.
Mặc dù, giá cá điêu hồng có xu hướng giảm nhưng nhiều nông dân nuôi cá điêu hồng trên bè có kinh nhiệm cũng nhận định giá khó có thể giảm xuống thấp hơn 40.000 đ/kg.
Ông Phan Thế Nhân, nông dân có 5 bè nuôi cá điêu hồng ở xã Thới Sơn, TP Mỹ Tho (Tiền Giang) cho biết, thời gian gần đây giá cá điêu hồng nằm ở mức cao, thậm chí giá cá lúc đỉnh điểm lên tới 44.000 đ/kg, nhưng người nuôi bè chưa dám khôi phục hoàn toàn sản xuất nên sản lượng cá cung cấp cho thị trường không dồi dào như những năm trước.
“Nếu trước đây bình quân mỗi chủ bè có 5 – 6 bè thả nuôi cá thì hiện nay họ chỉ dám thả nuôi 3 – 4 bè, mặc dù giá cá đang ở mức cao. Nguyên nhân là do đợt giá cá điêu hồng thấp dưới giá thành sản xuất năm ngoái (thua lỗ) trong thời gian dài đã làm cho người nuôi cụt vốn, trong khi đó hiện các đại lý kinh doanh thức ăn cá không còn bán thức ăn theo kiểu gối đầu như trước đây. Hiện nay, bình quân nuôi một bè nuôi cá điêu hồng thể tích 100 m3 giai đoạn từ 3 – 6 tháng cần phải có 5 – 7 bao thức ăn cá với giá trị gần 2 triệu đồng/ngày, do đó người nuôi cá không đủ vốn để thả nuôi hết các bè hiện có. Mặt khác, giá cá điêu hồng thời gian gần đây quá bấp bênh, nhiều lúc phải chịu lỗ nặng trong thời gian dài nên người nuôi cá cũng không yên tâm đầu tư vụ nuôi mới”, ông Nhân tâm tư.
Theo số liệu thống kê của ngành chức năng, tuần qua có 26 bè thu hoạch với sản lượng 150 tấn. Từ đầu năm đến nay đã có 856 bè với 16,748 triệu cá giống thả nuôi mới (chủ yếu thả trong quý II/2013), sản lượng thu hoạch 4.297 tấn. Hiện nay, toàn tỉnh có 1.004 bè đang thả nuôi trong tổng số 1.279 bè đang neo đậu (chiếm 78%).
Kiếm Tiền Tỷ Nhờ Nuôi Cá Giòn Ở Hải Dương – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam
Giàu lên trông thấy
Theo Chi cục Thủy sản Hải Dương: Hiện nay, trên địa bàn toàn xã Nam Tân có 17 dự án nuôi cá lồng với trên 900 lồng cá, trong đó số lồng cá giòn chiếm 5%. Năm 2013, sản lượng cá lồng toàn xã đạt trên 3.500 tấn, chủ yếu là: điêu hồng, lăng, chép giòn, trắm giòn.
Ông Nguyễn Trung Tựu, Cựu Chủ tịch xã Nam Tân, nay là một trong số hộ nuôi cá lồng đạt hiệu quả trên sông Kinh Thầy cho biết: “Nhu cầu lớn, giá cao, sản phẩm cá giòn đang mở ra tiềm năng, cơ hội lớn cho nghề nuôi cá lồng ở Nam Tân. Hiện tại, giá cá chép giòn dao động 130.000 – 145.000 đồng/kg, cá trắm giòn có giá khoảng 120.000 – 125.000 đồng/kg. Sau khi trừ chi phí, mỗi tấn cá giòn, người nuôi thu lãi 30 – 42 triệu đồng tùy theo thời điểm xuất cá”.
Là một trong những chủ hộ nuôi cá chép giòn thành công đầu tiên của địa phương, mỗi năm anh Nguyễn Thế Phước xuất bán khoảng 30 tấn cá trắm, chép giòn và hàng chục tấn cá diêu hồng, lăng, sau khi trừ chi phí, anh Phước lãi 6 – 7 tỷ đồng/năm. Anh Phước cho biết: “Thời gian đầu khi bắt tay vào nuôi con cá đặc sản này quả thật khó khăn vì kỹ thuật chưa vững, đã rất nhiều mẻ cá anh nuôi không trở thành “giòn” được. Đến khi có nhiều Dự án triển khai ở địa phương hỗ trợ người nuôi một phần vốn để đầu tư cho giống, thức ăn, các cán bộ chuyên ngành thủy sản hỗ trợ về kỹ thuật… thì cá chép, trắm giòn mới được “trình làng” với đủ tiêu chuẩn về chất lượng”.
Nuôi cá giòn ở Hải Dương cho hiệu quả cao – Ảnh: QM
Trước đây, người nuôi cá giòn phải nhập hạt đậu tằm từ Trung Quốc, song để chủ động nguồn nguyên liệu đảm bảo chất lượng, anh Phước đã thuê đất ở Mộc Châu (Sơn La), Bảo Lộc (Lâm Đồng) để trồng đậu tằm. Nhưng anh Phước cho hay: “Trước khi cho cá ăn, hạt đậu tằm sẽ được ngâm ủ trong khoảng 24 giờ. Kỹ thuật ngâm ủ là một trong những yếu tố rất quan trọng, giúp thịt cá dai và giòn hơn. Hiện tôi đã chủ động được hoàn toàn thức ăn và 100% cá giòn được nuôi ở Việt Nam, vì vậy người tiêu dùng có thể hoàn toàn yên tâm về chất lượng”.
Chưa thể phát triển
Theo ông Phạm Văn Tình, Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Hải Dương, lợi nhuận cao như vậy nhưng không phải ai cũng nuôi được cá chép giòn, trắm giòn đạt tiêu chuẩn vì nghề này rất công phu, đòi hỏi phải có kỹ thuật cao từ khâu chọn giống, thức ăn, chăm sóc đến phòng bệnh định kỳ… Thức ăn để luyện cá thường thành cá giòn không gì khác ngoài đậu tằm. Nhưng để cá ăn được đậu tằm không bị chết lại đòi hỏi kỹ thuật; bởi thức ăn đậu tằm phải được ngâm nước muối sao cho đủ nước, thừa không được mà thiếu nước lại gây nguy hại rất lớn cho cá, nếu không cẩn thận sẽ mất trắng.
Trước đây, thời điểm những năm 2010 – 2011, nhiều tin đồn về cá giòn ăn vào sẽ có nhiều độc hại vì công nghệ làm “giòn cá” khiến người tiêu dùng tẩy chay cá giòn nên người nuôi được một phen điêu đứng. Đến nay, thực phẩm này lại là một đặc sản cho các quán ăn, nhà hàng.
Bên cạnh đó, nghề nuôi cá giòn mới chỉ phát triển tự phát, chưa có quy hoạch cụ thể. Cùng đó, hiệu quả cao hơn so với cá nuôi thường song theo ngành chức năng tỉnh khuyến cáo thị trường đầu ra thiếu ổn định dẫn đến nhiều nguy cơ mất cân bằng cung – cầu. Vì vậy, người dân cần nên cân nhắc kỹ trước khi nuôi, tránh tình trạng ồ ạt thả nuôi.
Cá Tra Dầu – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam
Đặc điểm
Cá tra dầu có thể coi là loài cá nước ngọt lớn nhất thế giới, thuộc họ cá tra, bộ cá da trơn. Kích thước của chúng lớn, chiều dài có thể lên đến 3 m và trọng lượng có thể đến 300 kg. Cá có đầu to và dẹp, miệng rộng với hai râu dài ở hàm trên, vây bụng dài đến vây đuôi, vây lưng nhỏ ở phía trước. Lưng cá có màu nâu thẫm, màu ở bụng và vây nhạt hơn. Mặc dù lớn nhưng cá tra dầu chỉ ăn thực vật thủy sinh. Cá có đôi mắt nằm thấp trên đầu và hướng xuống dưới, có màu trắng sang vàng ở phía dưới. Chúng được phân biệt với các loại cá da trơn khác bởi râu kém phát triển hơn và không có răng.
Cá tra dầu có tập tính di cư sinh sản, chúng thường di chuyển từ tháng 10 đến tháng 12, từ hồ Tonle Sap ở Campuchia vào sông Cửu Long, từ đó nó tiến ngược dòng vào phía Đông Bắc Campuchia, Lào và Thái Lan để đẻ trứng. Chúng sử dụng các thực vật phát triển trong nước làm thức ăn. Đây là loài đặc hữu đối với lưu vực sông Mê kông chảy qua Campuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam và Trung Quốc. Cá tra dầu chủ yếu được tìm thấy ở hồ Tonle Sap và sông Mê Kông.
Hiện trạng
Cá tra dầu đã từng phân bố rộng rãi dọc lưu vực, từ Myanmar cho tới tây nam Trung Quốc. Cho đến đầu những năm 1990, quần thể loài này vẫn còn tương đối dồi dào. Từ đó tới nay, số lượng loài này đã bị giảm mạnh, và chỉ được tìm thấy tại sông Mê Kông và các nhánh của nó tại Lào, Campuchia và Thái Lan. Tính riêng trong thế kỷ qua, sản lượng cá tra dầu trên sông Mê Kông giảm đến 95%, và đứng trước bờ vực tuyệt chủng. Chúng được phân loại là rất nguy cấp trong Danh sách đỏ IUCN 2004, được liệt kê trong Phụ lục I của Công ước về Bảo tồn di cư loài động vật hoang dã và Phụ lục I của Công ước CITES. Theo nghiên cứu Dự án bảo tồn cá Mê Kông hợp tác với Bộ Thủy sản Campuchia tiến hành nghiên cứu vào năm 2001, đã cung cấp bằng chứng việc nạo vét, xây dựng đập đã phá hủy các bãi đẻ của cá tra dầu, đồng thời cản trở sự di chuyển và không gian sống của chúng.
Tuy nhiên, nguyên nhân chính dẫn đến quần thể cá tra dầu sông Mê Kông đã bị suy giảm mạnh do việc đánh bắt quá mức. Hiện, để bảo vệ loài cá tra dầu, ở một số nước như Thái Lan, Lào và Campuchia đã ban hành luật cấm khai thác loài cá này. Nhưng, tại nhiều ngôi làng hẻo lánh, dọc theo sông Mê Kông, người dân vẫn không thực thi điều luật này.
Giới khoa học chỉ biết đến loài cá này từ năm 1930 khi nó được “khám phá” tại một chợ cá ở Phnôm Pênh (Campuchia) và cho đến nay vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về loài cá này. Vào năm 2005, một cơ quan thủy sản Thái Lan đã bắt và nuôi giữ được một con cá tra dầu, có chiều dài 3 m và nặng 200 kg để nuôi giữ, và tiến hành sinh sản nhân tạo. Nhưng, cá đã chết trong khi nuôi nhốt và được bán làm thực phẩm cho người dân địa phương.
Cá tra dầu không thể nuôi nhốt mà chỉ đánh bắt được ngoài môi trường tự nhiên. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, trong cá tra dầu có lượng Omega 3 dồi dào nên rất bổ dưỡng cho não.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Kinh Bắc: Sống Khỏe Nhờ Giữ Trọn Chữ Tín – Tạp Chí Thủy Sản Việt Nam trên website Nhahangchacangon.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!