Đề Xuất 6/2023 # Hiệu Quả Từ Mô Hình Nuôi Cá Chạch Bùn Thương Phẩm Tại Huyện Đạ Huoai # Top 7 Like | Nhahangchacangon.com

Đề Xuất 6/2023 # Hiệu Quả Từ Mô Hình Nuôi Cá Chạch Bùn Thương Phẩm Tại Huyện Đạ Huoai # Top 7 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Hiệu Quả Từ Mô Hình Nuôi Cá Chạch Bùn Thương Phẩm Tại Huyện Đạ Huoai mới nhất trên website Nhahangchacangon.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Cá chạch bùn (tên khoa học: Misgurnus anguillicaudatus) có thịt thơm ngon, xương mềm nên thị trường nội địa tiêu thụ rất mạnh. Cá chạch bùn còn được gọi là cá chạch sụn vì khi cá đạt trọng lượng 30-40 con/kg thì toàn bộ xương cá (kể cả xương đầu và xương sống) được chuyển hóa thành sụn nên được nhiều người ưa chuộng, có thể sử dụng làm thực phẩm cho cả người già và trẻ nhỏ.

Cá chạch bùn có nguồn gốc từ Đài Loan được đưa về Việt Nam nhân giống, những năm qua được nuôi chủ yếu ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Nhiều bà con nông dân đang đầu tư sản xuất con giống và nuôi cá thịt thương phẩm hướng tới xuất khẩu.

Nhằm nghiên cứu, đưa loài thủy sản mới vào nuôi thử nghiệm trên địa bàn huyện Đạ Huoai. Qua đó, đánh giá tính thích nghi, hiệu quả kinh tế để khuyến cáo nông dân nuôi trồng, phát triển kinh tế. Năm 2014, Trung tâm Nông nghiệp huyện Đạ Huoai triển khai mô hình thử nghiệm nuôi cá chạch bùn thương phẩm tại huyện Đạ Huoai từ nguồn vốn Khoa học – Công nghệ của huyện. Mô hình được triển khai tại 2 hộ của thị trấn Mađaguôi, huyện Đạ Huoai (hộ ông Vũ Đức Biệc, tổ dân phố 2 và hộ ông Trần Minh Ngọc, tổ dân phố 10) với quy mô 200 m2/hộ. Số lượng con giống thả nuôi 9.000 con/điểm/200m2. Kích cỡ con giống thả nuôi khoảng 2 g/con. Sử dụng thức ăn công nghiệp của cá chạch bùn có hàm lượng đạm từ 30-35%.

Sau 3,5 tháng nuôi (từ tháng 8-11/2014), cá đạt trọng lượng trung bình 35 gram/con (28-30 con/kg) tương ứng tốc độ tăng trọng 9,14 gram/con/tháng. Tỷ lệ nuôi sống đạt 89% (lượng cá giống thất thoát không phải do bị bệnh mà chủ yếu là do vận chuyển đường xa cá bị chết và bị chim, cò ăn trong quá trình nuôi). Sản lượng cá thu hoạch đạt 280 kg/200m2, giá bán sỉ 145.000 đồng/kg, doanh thu 40,6 triệu đồng. Sau khi trừ chi phí 24,93 triệu đồng gồm mua giống, thức ăn công nghiệp, thuốc thú y thủy sản…, nông dân thu lãi 15,67 triệu đồng/200m2/3,5 tháng nuôi (chưa trừ chi phí công lao động).

Qua quá trình theo dõi, cá chạch bùn có nhiều ưu điểm như: Tăng trọng nhanh, chu kỳ nuôi ngắn (3-4 tháng/lứa), sức đề kháng cao, không xuất hiện bệnh tật, thịt cá thơm, ngon, bổ dưỡng, giá bán cao, thị trường tiêu thụ thuận lợi (tư thương đặt hàng mua số lượng lớn)… nên hiệu quả kinh tế cao. Ngày 22/11/2014, Trung tâm Nông nghiệp huyện Đạ Huoai tổ chức mời nông dân tham dự hội thảo, trực tiếp nghe nông hộ thực hiện mô hình báo cáo hiệu quả kinh tế của việc nuôi cá chạch bùn. Đến nay, ngoài 2 hộ thực hiện mô hình tiếp tục nuôi chu kỳ mới thì đã có thêm 2 hộ chủ động đầu tư, nhân rộng mô hình. Hiện nay cá đang sinh trưởng, phát triển rất tốt, tỷ lệ sống cao, tăng trọng nhanh.

Nhằm giúp nhiều hộ dân nắm bắt kỹ thuật, nhân rộng mô hình nuôi cá chạch bùn thương phẩm để phát triển kinh tế, Trung tâm Nông nghiệp Đạ Huoai giới thiệu kỹ thuật nuôi cá chạch bùn thương phẩm như sau:

1. Chuẩn bị ao nuôi

Vị trí ao nuôi tốt nhất là gần nguồn cung cấp nước. Nước có thể ra vào thường xuyên, điều kiện thay nước dễ dàng. Chất lượng nước đảm bảo không bị ô nhiễm. Nên chọn ao ở những nơi đất có thành phần cơ giới nặng như đất sét, thịt pha sét.

Vị trí ao ở nơi thoáng mát, nhiều ánh nắng. Bờ ao và mái bờ ao phải chắc chắn không bị sạt lở, không có khe nứt, hang hốc.

Mực nước trung bình từ 60-70 cm, trong ao có thể thả bèo tây để tạo chỗ trú ẩn cho cá tránh nóng, tránh rét và làm sạch môi trường nước.

1.1 Kỹ thuật xử lý, cải tạo ao nuôi

- Đối với những ao đã nuôi: Có hai phương pháp cải tạo ao, đó là cải tạo khô hoặc cải tạo ướt, cũng có thể kết hợp giữa cải tạo khô và cải tạo ướt, tuỳ thuộc vào chất đất, độ pH của đất, điều kiện vùng nuôi để có phương pháp cải tạo ao thích hợp đảm bảo nền đáy ao sạch, chất lượng nước tốt và ổn định.

* Cải tạo ướt: Đối với ao bị nhiễm phèn hoặc không thể phơi đáy. Hút bùn đen ra ngoài ao. Lấy nước vào đầy ao rồi xả, xả 3-4 lần. Lấy nước vào khoảng 30cm rồi đánh CaO (vôi tôi) 15-20 kg/100m2. Ngâm 2-3 ngày sau đó xả bỏ. Lấy nước vào, xả bỏ lại một lần nữa, nên cải thiện đáy ao với men vi sinh xử lý đáy.

Bón vôi CaCO3 (vôi bột), liều lượng vôi dùng để cải tạo cho 1.000 m2 ao.

pH

CaCO3 (Vôi bột)

(Kg)

Ca(OH)2

(Vôi nông nghiệp)

4 – 5

160 – 180

100 – 120

5 – 6

120 – 140

80 – 100

80 – 100

40 – 60

Sau đó, lấy nước vào ao.

* Cải tạo khô: Đối với ao ít hoặc không nhiễm phèn, thì thực hiện:

Tát cạn ao: Có thể tháo, bơm, hoặc tát để ao hết nước.

Dọn ao: Sửa sang bờ, dọn cỏ quanh bờ, chống rò rỉ, dọn sạch và san đáy, vét bùn, sửa sang cống tháo nước vào, ra. Trong điều kiện cho phép có thể cày xới và phơi lớp bùn đáy ao trong 5-10 ngày tạo điều kiện cho oxy thâm nhập vào đáy ao góp phần làm tăng độ màu mỡ của ao. Lớp bùn trong ao nuôi cá nên để từ 20-25cm là tốt nhất.

Diệt tạp: Tức là diệt các loại sinh vật gây hại cá còn sót lại dưới đáy ao hoặc xung quanh bờ, chủ yếu là các loài cá ăn thịt như lươn, cá rô, cá trê, cá lóc, các loại ấu trùng, côn trùng, cóc, ếch nhái. Dọn ao và diệt tạp thường tiến hành đồng thời và làm trước khi thả cá ra ao từ 10-12 ngày. Nếu làm sớm quá sinh vật hại cá sẽ có điều kiện phát triển trở lại. Nếu làm muộn thì một số chất diệt tạp chưa phân hủy hết sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cá bột. Sử dụng vôi để diệt tạp. Khi vôi tan vào trong nước làm tăng độ pH của nước lên cao (pH = 11) làm cho các loài cá tạp, tôm và các sinh vật có hại khác bị tiêu diệt.

Bón lót: Là biện pháp cần thiết trong khâu chuẩn bị ao ương nhất là với những ao nghèo chất dinh dưỡng. Mục đích của việc bón lót là cung cấp cho ao một lượng phân hữu cơ là nguồn dinh dưỡng tức thời cho các sinh vật làm thức ăn cho cá ngay khi thả xuống ao. Mặt khác do phần lớn lượng phân bón lót phân hủy chậm nên nó sẽ tiếp tục bổ sung dinh dưỡng giúp cho quá trình phát triển sinh vật phù du trong ao được lâu bền trong suốt thời kỳ nuôi cá. Tùy điều kiện từng địa phương, gia đình có thể sử dụng phân lợn, gà đã ủ để bón lót tránh dùng phân có nhiều rác khó phân hủy. Lượng phân bón 20-50 kg/100m2.

Gây màu nước: Sau khi vét bùn đáy, bón vôi khử trùng, bón lót xong ta tiến hành lấy nước vào ao để đạt độ sâu 70 cm rồi tiến hành gây màu nước. Lưu ý khi lấy nước phải dùng lưới lọc ở chỗ lấy nước vào để ngăn các loài địch hại.

Gây màu nước thực chất là tạo môi trường thuận lợi cho tảo phát triển, tảo quang hợp mạnh sẽ cung cấp nhiều oxy cho ao nuôi. Chúng ta nên sử dụng các loại phân vô cơ NPK, phân vi sinh, men vi sinh hoặc chế phẩm sinh học bón xuống ao. Khoảng 7-10 ngày sau khi sử dụng phân bón, tảo trong ao phát triển, màu nước của ao có màu xanh nhạt thì chúng ta tiến hành thả giống. Với cách chuẩn bị như thế, hầu hết các ao nuôi sau khi thả giống một tháng không phải thay nước, chỉ cần giữ mực nước ở ao nuôi với độ sâu tối thiểu từ 1-1,2m.

Cách gây màu nước

+ Nếu dùng phân đã ủ để gây màu thì hòa phân với nước rồi rắc đều khắp ao. Lượng phân dùng khoảng 50-60 kg/100m2.

+ Nếu dùng phân xanh thì phải ngâm xuống ao sớm hơn bón phân chuồng 3-4 ngày. Bó phân xanh thành từng bó khoảng 5-10 kg. Cứ 100m2 rải 3-4 bó đều quanh ao. Cứ như vậy khoảng 7-10 ngày phân xanh phân hủy hết thì vớt đi phần cành cây không phân hủy, rồi lấy tiếp nước cho đạt yêu cầu.

– Đối với những ao mới đào: Nếu ao mới đào chưa nuôi cá, cho nước vào ngâm 2-3 ngày rồi xả hết nước ngâm và tháo rửa như vậy ít nhất 2-3 lần để rửa ao. Sau đó tiến hành các bước cải tạo ao như với ao đã nuôi ở trên.

2. Chọn giống nuôi và thả giống: Giống được mua tại những cơ sở chuyên sản xuất giống nhân tạo cá chạch bùn. Khi mua cần chú ý chọn mua ở những địa chỉ tin cậy, đảm bảo chất lượng theo yêu cầu như cá khỏe mạnh, cỡ đồng đều 500 con/kg, sáng bóng, không mất nhớt, bơi lội hoạt bát, không bị trầy xước.

3. Mật độ thả nuôi: 45 con/m2 hoặc thả 10-15 kg chạch giống/100m2 ao. Cá nên được thả vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát. Nếu cá được vận chuyển bằng túi nilong bơm oxi, trước khi thả phải ngâm túi chứa cá vào ao thả từ 15-20 phút để tránh sốc do nhiệt độ và môi trường nước ao thay đổi.

4. Cho ăn và chăm sóc

- Thức ăn: Có thể sử dụng nhiều loại thức ăn khác nhau như: khô đậu, cám gạo, nhộng tằm, thức ăn chế biến, thức ăn công nghiệp, cá tạp, ốc xay. Khuyến cáo nên dùng thức ăn công nghiệp dạng viên nổi dùng cho cá chạch có hàm lượng đạm từ 30-35%.

- Lượng thức ăn: 5-8% trọng lượng thân. Hệ số tiêu tốn thức ăn 1,7kg thức ăn sẽ cho ra 1 kg cá chạch thương phẩm có trọng lượng 25-30 con/kg (trung bình 30-40 g/con).

- Thời gian cho ăn: Cho ăn 1-2 lần/ngày vào sáng sớm và chiều tối. Tuy nhiên cá có tập tính ăn chủ yếu vào ban đêm, nên lượng thức ăn cho ăn vào chiều tối là chủ yếu.

5. Thu hoạch

Khi cá chạch đạt giá trị thương phẩm, trước khi xuất bán không cho ăn trước 1 ngày, không dùng kháng sinh trước khi xuất bán 15 ngày. Đánh bắt cẩn thận không để xây xát, cho vào thùng xốp, không cho nước, hoặc cho ít nước để không bị khô da.

6. Phòng bệnh và trị bệnh

Phòng bệnh: Cá chạch ít bị bệnh, tuy nhiên nếu để nước ô nhiễm nhiều ngày thì cũng dễ bị bệnh. Cá chạch có thể bị nấm, đốm đỏ lở loét, bệnh đường ruột… Để phòng bệnh nên trộn thêm vitamin C, men tiêu hóa vào thức ăn, định kỳ cho ăn 2 lần/tháng, mỗi lần 3-5 ngày liên tục. Ngoài ra còn phải cho ăn 4 đúng (đúng chất lượng, đúng số lượng, đúng thời gian, đúng vị trí). Chú ý thay nước định kỳ không để nước ô nhiễm.

Trị bệnh: Khi phát hiện cá chạch bị nấm có thể tắm cho bằng các loại hóa chất sau: Nước muối 3%; hoặc KMnO4 liều lượng 20g/m3 nước, thời gian 10-15 phút.

Trộn kháng sinh vào thức ăn cho ăn: Doxycyline 0,2-0,3g/kg thức ăn; Oxytetracyline 2-4g/kg thức ăn, cho ăn 5-7 ngày liên tục.

Nguyễn Thị Thu Thắm

Trung tâm Nông nghiệp huyện Đạ Huoai

Hiệu Quả Từ Mô Hình Nuôi Cá Koi

30 năm trong nghề nuôi và kinh doanh cá cảnh, tuy nhiên chỉ đến khi bắt đầu kinh doanh cá Koi (cá chép Nhật Bản) một cách chuyên nghiệp từ năm 2016, ông Phan Công Câu (trú thôn Phú Sơn 3, xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang) mới thực sự “đổi đời” khi nguồn thu nhập từ cá Koi lên đến 300 triệu đồng/năm.

Cá Koi tại trại cá của ông Phan Công Câu.

Cửa hàng bán cá cảnh của ông Phan Công Câu trên quốc lộ 14B, thôn Phú Sơn 3, xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang luôn tấp nập người liên tục ra vào hỏi mua và vận chuyển cá Koi đi các nơi. Ông Câu cho biết, ông đang cung cấp cá Koi cho các khách hàng khắp thị trường miền Trung-Tây Nguyên với sản lượng cung cấp xấp xỉ 10.000 con cá Koi mỗi năm.

Khởi nghiệp với nghề nuôi cá cảnh từ năm 1989, tuy nhiên vì nhiều lý do khác nhau mà nguồn thu nhập từ nghề ở thời điểm đó chỉ đủ trang trải cuộc sống. Đến năm 2010, nhận thấy thị trường bắt đầu ưa chuộng cá Koi vì có màu sắc đẹp và quan niệm mang lại may mắn cho người nuôi, ông Câu đánh liều vay 150 triệu đồng để nhập 16 con cá Koi đủ màu sắc thuộc nhiều dòng khác nhau về nuôi sinh sản.

Tuy nhiên, do thiếu kinh nghiệm nên những lứa cá con ươm giống ban đầu chết hoàn toàn, còn cá mẹ đẻ xong cũng chết vài con. Không nản chí, ông Câu tìm đến những trại cá Koi lớn ở Nam Định, Tiền Giang… để học hỏi cách nuôi loài cá này.  Đồng thời, ông lên mạng internet để học hỏi cách nuôi loài cá Koi sao cho hiệu quả, dần dần những lứa cá sau thu được kết quả tốt. “Để nuôi được cá có vẻ đẹp tự nhiên, tuổi thọ cao thì thức ăn, chế độ dinh dưỡng, môi trường sống là yếu tố quyết định. Đồng thời hồ phải rộng, độ sâu từ 0,8 đến 1,5m, nước trong, sạch, rong, tảo không quá nhiều”, ông Câu cho biết.

Sau một thời gian nuôi và sản xuất cá giống, ông Câu nhận thấy lượng cá sinh sản không đủ. Mỗi lứa cá giống chỉ lựa được 30% số cá đủ tiêu chuẩn để nuôi, còn lại phải thải bỏ. Năm 2016, ông Câu kết hợp với các hộ nuôi cá trong vùng bằng cách ông cung cấp giống cá và các hộ liên kết chịu trách nhiệm chăm sóc và tới thời điểm thu hoạch, ông sẽ mua lại. Nhờ đó thu về hàng trăm triệu đồng mỗi năm.

Ông Nguyễn Ngọc Xảo, thôn Phú Sơn 2, xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang cũng là một trong những hộ nuôi cá đang liên kết với ông Câu chia sẻ: “Tôi đang hợp tác với anh Câu nuôi xen cá Koi với cá khác trên với diện tích 1,5ha. Một con cá Koi phát triển tốt cần phải 2-3 khối nước để sinh sống, tuy nhiên, cùng một khối nuôi đó lại có thể nuôi xen các loại cá trắm cỏ, cá mè… Vì cá Koi ăn ở tầng đáy nên có thể tận dụng được nguồn thức ăn của các loại cá trên. Trừ chi phí sản xuất, thu nhập từ việc hợp tác nuôi cá với ông Câu trung bình 60-80 triệu đồng/năm”.

Để nhiều người biết đến thương hiệu cá Koi của mình, ông Câu lập các trang trên mạng xã hội như Facebook, Zalo…để giới thiệu các loại cá Koi của mình. Riêng tại Đà Nẵng, trại cá Koi của ông Câu có thể xem là mô hình cá Koi duy nhất. Từ năm 2016, ông Câu chỉ hợp tác nuôi với các hộ dân khoảng 1.000 con cá Koi, sau 3 năm đã gấp 10 lần số cá đó. Tuy nhiên, để chuyển môi trường sống từ ao qua hồ cá thì chỉ có 60-70% số cá chịu được vì những lý do khác nhau như sốc nước, sốc nhiệt…

Ông Trần Văn Mười, Chủ tịch Hội Nông dân xã Hòa Khương nhận xét, mô hình nuôi cá Koi của ông Câu đã mang lại hiệu quả kinh tế cho gia đình ông và các hộ liên kết với ông. Từ chỗ là hộ nghèo của xã, nay ông đã có một trại cá cảnh khang trang trên đường quốc lộ 14B, có điều kiện cho các con ăn học đến nơi đến chốn.

Bài và ảnh: MAI QUẾ

Làm Giàu Từ Mô Hình Nuôi Cá Chạch Bùn

Ông Bùi Vĩnh Thái, người đầu tiên ở An Giang thực hiện mô hình nuôi cá chạch bùn trong ao đất mang lại hiệu quả cao. Ông còn thành công trong việc SX con giống tại cơ sở ấp Hòa Thuận, xã Hòa Bình Thạnh, huyện Châu Thành (An Giang). Hiện nay, không riêng ông Thái cho đẻ nhân tạo cá chạch bùn, nhiều viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản cũng nghiên cứu cho cá chạch bùn sinh sản nhằm giúp người nuôi đẩy mạnh phát triển nuôi cá thương phẩm.

Ông Thái cho biết, ông bắt đầu thả nuôi cá chạch từ tháng 4/2013 với số lượng ban đầu là 300.000 con giống trên diện tích 2.000 m2. Đến nay, ông đã tăng diện tích lên 10 ao với khoảng 5 ha. Nguồn lợi nhuận mang lại cho ông hàng chục triệu đồng/tháng. Được biết, tại các tỉnh Đồng Tháp, Hậu Giang, Cần Thơ và một số tỉnh miền Đông, nhiều hộ nuôi cũng đang mở rộng diện tích SX con giống và cá thương phẩm.

Đặc biệt, cá chạch bùn khi chuyển đi xa, người ta có thể ướp nước đá cho cá ngủ đông trong khoảng 5 tiếng đồng hồ. Sau đó thả cá vào nước ngọt, cá sẽ sống lại nên rất thuận tiện cho việc chuyên chở. Nhờ có nhiều năm kinh nghiệm nuôi cá nước ngọt nên ông Thái nắm vững kỹ thuật chọn cá bố mẹ, cho cá sinh sản… Ông khẳng định: “Cá chạch bùn không những dễ nuôi mà còn phát triển nhanh, giá cả thị trường hiện rất hấp dẫn nên tôi mạnh dạn đầu tư vào mô hình này”.

Ông Thái không những SX con giống mà còn SX cá thương phẩm để cung cấp cho thị trường Cần Thơ, An Giang và các tỉnh lân cận. Từ đầu năm 2013 đến nay ông đã cung cấp hơn 42 triệu cá bột, hiện bán với giá 40 đồng/con. Nếu bán cá hương sẽ được 1.000 đồng/con. Ngoài ra ông còn đưa ra thị trường trên khoảng 1,7 tấn cá thịt với giá 300.000 đồng/kg.

Ngoài việc SX và ươm giống, ông còn làm đầu mối thu mua cá chạch của nông dân đem đi tiêu thụ các nhà hàng trong khu vực ĐBSCL. Tuy bận rộn công việc, nhưng ông Thái sẵn sàng hướng dẫn nhiệt tình, tư vấn kỹ thuật nuôi cá cho bà con nông dân, nhằm tạo điều kiện cho người nuôi phát triển ngày càng nhiều, nhằm góp phần tăng đa dạng hóa loài thủy sản nước ngọt.

Hiện nay, có một số người, trong đó có nhà hàng và quán ăn đã nhầm lẫn giữa cá chạch bùn và chạch quế. Cá chạch bùn mình dẹp, khi nấu chín xương mềm, còn cá chạch quế thịt cũng rất thơm ngon nhưng mình hơi tròn và xương cứng.

Theo tài liệu nghiên cứu của một số cán bộ thuộc Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I, cá chạch bùn là loại mới nhập khẩu đang được nhân rộng và phát triển ở miền Trung và các tỉnh ĐBSCL. Chạch bùn có thể sống ở sông, hồ, ao và ruộng lúa, nơi có đáy bùn và nước chảy nhẹ. Hiện nay, các nhà nghiên cứu đã cho sinh sản nhân tạo thành công, kích thích bằng não thùy. Kết quả cho thấy cá cái thụ tinh đạt 70% và tỷ lệ nở đạt 60%.

Ông Thái cho biết thêm: “Trong thiên nhiên, cá chạch bùn lúc nhỏ ăn giun và ấu trùng trong đất là chính, sau đó chuyển dần sang ăn tạp. Đến giai đoạn trưởng thành, thức ăn chủ yếu của chúng là thực vật như tảo, thân lá cây, cỏ non. Đối với cá nuôi, người ta sử dụng nhiều thức ăn khác nhau, từ thức ăn chế biến đến thức ăn công nghiệp. Khi cá có chiều dài trên 5 cm, người ta thường cho ăn thức ăn dạng viên nổi, độ đạm dao động từ 38-40%”.

Theo ông Thái khi nuôi cá chạch bùn rất yên tâm và chủ động hoàn toàn nguồn thức công nghiệp, giúp cá khỏe và nhớn nhanh. Với hệ số thức ăn 1.7 sẽ cho ra 1 kg cá chạch thương phẩm khoảng 25 – 30 con.

Cá chạch bùn thường sinh sản từ tháng 4 đến tháng 10, tỷ lệ sinh sản cao nhất từ tháng thứ 6 – 8. Cá bột sau khi nở được ươm trong bể xi măng, ăn thức ăn phù du và lòng đỏ trứng. Cá hương cũng tiếp tục ươm trong bể xi măng rộng hơn và ăn thức ăn viên công nghiệp. Thường mỗi ngày cho ăn 2 lần lúc 8 giờ sáng và 4 giờ chiều.

Muốn cho cá mau lớn và đạt năng suất cao, bể nuôi và ao nuôi cần được thay nước sạch thường xuyên. Nói tóm lại, dù nuôi ở bất cứ hình thức nào, muốn thành công, người nuôi phải tuân thủ nghiêm nhặt các quy định về chuyên môn, nhất là ao nuôi phải được cải tạo và thường xuyên phòng chống dịch bệnh.

Con cá tiềm năng

Sau khi tham quan các ao cá chạch bùn của ông Thái, ông Lê Văn Hải, Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Hòa Bình Thạnh nhận định, đây là mô hình mới mẻ nhưng thật hấp dẫn và độc đáo được nuôi và nhân giống tại An Giang. Nó có thể giúp người nuôi mở ra một con đường phát triển SX đầy triển vọng.

Tuy nhiên, muốn phát triển bền vững, tránh điệp khúc “hàng nhiều dội chợ”, gây tổn thất cho người nuôi, các nhà chuyên môn, các ngành chức năng phải vào cuộc bằng cách hướng dẫn, tư vấn cho bà con nắm bắt được những thông tin khoa học, kinh tế cần thiết để tránh những thiệt hại về sau. Bằng kinh nghiệm nuôi trồng và SX kinh doanh, chắc bà con chưa quên những bài học xương máu về con cá tra, cá rô đầu vuông và cá điêu hồng “hễ được mùa là rớt giá”.

TS Bùi Minh Tâm, Phó trưởng Bộ môn Kỹ thuật nuôi thủy sản nước ngọt, Khoa Thủy sản, Trường ĐH Cần Thơ có ý kiến việc nuôi cá chạch như sau: “Ở ĐBSCL có nhiều loại cá chạch như chạch khoan, chạch rằn, chạch bông, chạch cơm, chạch lấu… Chúng thường sống trong ao hồ, sông rạch và thích ẩn mình dưới những lớp bùn, hoặc đeo bám theo các giề lục bình, nơi sông sâu nước chảy. Riêng cá chạch bùn, tên khoa học Misgurnus anguillicaudatus cantor) là loại cá mới xuất hiện trên thị trường gần đây. Giá trị kinh tế cao, được nhiều người ưa dùng.

Tuy nhiên, không vì thế mà chúng ta phát triển ồ ạt, bất chấp những quy luật khách quan, có thể dẫn tới nhiều rủi ro và bất trắc sau nầy. Thực tế cho thấy, cá chạch bùn không dễ nuôi như một số người đã nghĩ. Nếu không nắm vững kỹ thuật, nhất là thức ăn, môi trường nước, cá sẽ chậm lớn, hao hụt nhiều, năng suất không cao.

Muốn đầu tư và phát triển bền vững, đạt hiệu quả, nhất thiết chúng ta cần phải lắng nghe những lời khuyến cáo của các nhà khoa học, các chuyên gia về thực phẩm, đặc biệt là ý kiến tư vấn của ngành khuyến nông khuyến ngư”.

Theo ông Tâm, việc phát triển nuôi trồng thủy sản hiện nay được Bộ NN-PTNT động viên và khuyến khích nhất là các loài thủy sản bản địa. Riêng đối với các loài thủy sản có nguồn gốc từ nước ngoài, chúng ta nên hết sức thận trọng, đi từng bước và tuyệt đối phải tuân thủ ý kiến chỉ đạo và lời khuyến cáo của ngành thủy sản và các cơ quan chức năng.

Nguồn: sưu tầm

Hiệu Quả Mô Hình Nuôi Cá Hô Công Nghiệp

Gần đây, nghề đánh bắt cá hô tự nhiên dần đi vào “ngõ cụt”. Đó là lẽ tự nhiên khi con cá hô bị đánh bắt một cách vô tội vạ và loài cá quý hiếm của dòng Mê Công này đang được xếp vào loài có nguy cơ tuyệt chủng. Việc nuôi cá hô bằng mô hình công nghiệp không chỉ bảo tồn, phát triển loài cá hô mà còn là mô hình kinh tế khá thành công tại An Giang… * Thành công bước đầu

Với việc Trung tâm Quốc gia giống thủy sản nước ngọt Nam bộ thuộc Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II ở Cái Bè (Tiền Giang) nghiên cứu, lai tạo thành công loài cá hô quý hiếm năm 2006 đã mở ra một tương lai cho việc bảo tồn phát triển cá hô lưu vực sông Mê Công. Công ty cổ phần Nông ngư Quốc tế IFACO (An Giang) đã mạnh dạn làm cầu nối giữa trung tâm với một số nông dân tâm huyết với con cá hô tìm mua nguồn cá giống, bắt đầu thí điểm mô hình nuôi cá hô công nghiệp trong dân đầu tiên tại Việt Nam.

Người đầu tàu thí điểm mô hình nuôi cá hô công nghiệp là anh Lê Thành Nam ngụ tại ấp Bình Thủy, xã Bình Mỹ, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Anh Nam cho biết: “Giữa năm 2008, tôi nghe thông tin một số nông dân ở Hậu Giang đã bắt đầu nuôi cá hô trong ao hầm đang phát triển khá. Vốn đam mê con cá hô từ nhỏ, lại sống tại vùng đất là cái nôi nghề đánh bắt cá hô truyền thống, tôi dò hỏi anh Chinh bên Hiệp hội Nghề cá nhờ sự hỗ trợ nhiệt tình từ việc tìm con giống, hướng dẫn một số kỹ thuật cơ bản rồi bắt đầu thả nuôi cá hô ao hầm đến nay được hơn 3 tháng”.

Cá hô giống đang thuần dưỡng chuẩn bị thả nuôi ở An Giang.

Cùng với hộ anh Nam, hiện Công ty IFACO còn thí điểm song song mô hình nuôi cá hô công nghiệp xen cá rô phi và nuôi trên bè ở hai hộ ông Thái Văn Hưởng ở phường Bình Khánh và ông Lê Chí Bình ở xã Mỹ Khánh (thành phố Long Xuyên) với số lượng 500 con/hộ, mật độ 5m2/con cũng đang phát triển rất tốt.

* Thị trường ổn định

Từ những thành công bước đầu, anh Nam hồ hởi nói: “Với lợi thế kinh nghiệm nuôi cá ao hầm hàng chục năm, cùng với việc cá hô đang phát triển rất tốt như hiện tại, tôi tin chắc rằng chỉ sau 2-3 năm thả nuôi, lượng cá hô đang thả này sẽ mang về bạc tỉ. Nếu vụ cá hô lần này thành công, tôi sẽ đẩy mạnh việc phát triển ao nuôi, số lượng cá thả, hướng đến một mô hình nuôi cá hô công nghiệp với qui mô lớn”. Tuy nhiên, hiện anh Nam cũng rất băn khoăn khi nguồn cá hô giống giá quá cao, chỉ duy nhất một nhà cung cấp, những bệnh dịch sau 3 tháng nuôi chưa xuất hiện nhưng cách phòng tránh bệnh dịch vẫn chưa được phòng bị hiệu quả đã và đang là nỗi lo lớn nhất đối với anh.

Cá hô là loài cá lớn nhất thuộc họ cá chép có tên khoa học là Catlocarpio siamensis. Cá từ 5 đến 6 tuổi mới trưởng thành và nặng trung bình 10kg. Ở môi trường tự nhiên, cá nặng trên 100kg. Nếu nuôi theo mô hình công nghiệp, theo đúng quy trình, mỗi năm cá tăng trọng từ 2-3kg. Hiện cá hô vẫn đang là loài cá quý hiếm sống nhiều lưu vực sông Mê Công, nằm trong sách Đỏ thế giới.

Trao đổi với chúng tôi, ông Châu Minh Chinh, Trưởng phòng Tư vấn – Kỹ thuật – Thương mại Hiệp hội Nghề nuôi và Chế biến thủy sản An Giang (AFA), Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Nông ngư Quốc tế IFACO, cho biết: “Đây là loài cá quý hiếm có giá trị thương phẩm cao. Giá cá hô trên thị trường hiện từ 160.000 đến 180.000 đồng/kg nhưng không đủ nguồn cung, lại thích hợp với nguồn nước ngọt và thổ nhưỡng Đồng bằng sông Cửu Long. Hiện nay, công ty đang tích cực phối hợp với Trung tâm chuyển giao con giống, cung cấp các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật phòng trị bệnh, cung cấp nguồn thức ăn tốt nhất… cho những hộ nuôi thí điểm, nhằm tìm một hướng phát triển bền vững vừa bảo tồn được nguồn gien quý, vừa tạo mô hình chăn nuôi hiệu quả”. Ông Chinh còn cho biết thêm, nếu 3 mô hình thí điểm trên đạt thành công, chúng tôi sẽ đẩy mạnh việc phối hợp Trung tâm cung ứng từ 10.000 đến 20.000 con giống/tháng, loại 20 con/kg với giá cả phù hợp nhằm nhân rộng mô hình.

Theo thạc sĩ Thi Thanh Vinh, Chủ nhiệm Chương trình “Bảo tồn nguồn gien cá nước ngọt”, Trung tâm Quốc gia giống thủy sản nước ngọt Nam bộ, sau 3 năm sưu tầm lai tạo thuần chủng cá đến nay, Trung tâm đang có 40 con cá hô bố mẹ; lai tạo thành công gần 10.000 thế hệ cá hô bột F1 phục vụ các mô hình nuôi thí điểm. Hướng đến Trung tâm sẽ cung cấp lượng giống cá con dồi dào, cung cấp đại trà với giá cả phù hợp để con cá hô chính thức được bảo tồn.

Bài, ảnh: NGUYỄN HUỲNH

Bạn đang đọc nội dung bài viết Hiệu Quả Từ Mô Hình Nuôi Cá Chạch Bùn Thương Phẩm Tại Huyện Đạ Huoai trên website Nhahangchacangon.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!