Cập nhật nội dung chi tiết về Hiệu Quả Kinh Tế Của Mô Hình Cá Mú Đìa mới nhất trên website Nhahangchacangon.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Tại Khánh Hòa, bên cạnh các đối tượng hải sản nuôi truyền thống như cá bóp, cá chim, ốc hương … ngư dân Nha Trang đang từng bước đưa vào nuôi các đối tượng hải sản mới có giá trị kinh tế ao như cá mú trong đó, mô hình nuôi cá tại đìa tự nhiên bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân địa phương.
Ông Lê Ngọc Quang hội viên nông dân phường Vĩnh Trường – một phường biển có nhiều mặt hàng thủy sản nổi tiếng tại Nha Trang, là người có kinh nghiệm nuôi thủy sản lâu năm cho biết: cách dây 7 năm, sau bao nhiêu năm đi bạn, nhận thấy tuổi đã lớn không còn đủ sức khỏe, sau khi tìm hiểu ông quyết định thuê 8 ha đìa tại Cam Lâm và ông thả nuôi 1.500 con giống cá mú, kích cỡ cá giống từ 6 – 8 cm. Mặc dù lần đầu tiên nuôi thử nghiệm, nhưng cá mú thích nghi tốt với điều kiện môi trường tự nhiên vùng ven biển của địa phương nên cá sinh trưởng và phát triển nhanh. Sau hơn 1 năm tháng nuôi, tỷ lệ sống đạt 75%, trọng lượng cá đạt từ 0,8 – 1 kg/con, sản lượng thu hoạch khoảng 1,4 tấn. Với giá bán từ 210.000 – 220.000 đồng/kg, ông thu được 310 triệu đồng, trừ các chi phí còn lãi 160 triệu đồng. So với các đối tượng nuôi truyền thống như cá bớp thì mô hình nuôi cá mú cho hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều. Ông …. cho biết thêm, sau khi thu hoạch hết vụ cá nuôi thử nghiệm đó, ông đã tiếp tục đầu tư nuôi cá mú số lượng nhiều hơn, bởi dù là đối tượng nuôi mới nhưng cá mú mang lại hiệu quả kinh tế rất cao, đầu ra ổn định, thị trường tiêu thụ rộng.
Sau thành công của vụ nuôi thử nghiệm, ông … đã tích lũy thêm một số kinh nghiệm nuôi cá cá mú và cùng 1 số người bạn mở rộng thêm 10 ha để thả cá. Hội Nông dân thành phố đã nhận thấy mô hình có tiềm năng phát triển và hỗ trợ nguồn vốn 100 triệu đồng từ nguồn Quỹ HTND thành phố cho 04 hộ vay được nhân rộng mô hình từ ông. Sau khi nhận hỗ trợ từ Quỹ HTND thành phố , ông cùng những người bạn đã xúc tiến mua giống và thả vào 10 ha đìa mới mở rộng.
Để cho các anh em trong nghề học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, ông không ngại ngần chia sẻ những kinh nghiệm mình đúc rút qua 7 năm nuôi cá mú: Chọn vị trí nuôi tại các đìa sát biển. Thức ăn cho cá chủ yếu là cá tạp tươi, rửa sạch ngâm trong nước ngọt trước khi cho ăn để hạn chế mầm bệnh. Thức ăn được rửa, cắt nhỏ phù hợp với miệng cá và cho ăn 2 lần/ngày vào lúc sáng sớm và chiều mát. Định kỳ sử dụng vitamin C và men tiêu hóa trộn vào thức ăn để tăng khả năng bắt mồi và sức đề kháng cho cá. Thường xuyên vệ lặn theo dõi đáy đìa để xem lượng thức ăn còn sót lại nhiều hay ít để hôm sau tặng hoặc giảm lượng thức ăn cho phù hợp. Thả luân canh để dễ thu hoạch và có thu nhập đều. Thả thêm cá dìa và cá giò để vệ sinh đìa. Sau 7 năm nuôi ông hiện chưa bị thất bại mùa vụ nào do dịch bệnh của cá mú.
Hiện nay, tại Nha Trang có gần 10 hộ nuôi cá mú thuê đìa tại Cam Lâm. Mặc dù mô hình nuôi cá mú đã đạt được những thành công bước đầu và đầu ra sản phẩm ổn định, tuy nhiên hiện nay giống phải nhập từ Đài Loan và Trung Quốc về nên nguồn giống giá cao và khan hiếm. Mặc dù còn những khó khăn nhất định, nhưng thành công của mô hình nuôi cá mú đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân, không chỉ góp phần đa dạng hóa sản phẩm và đối tượng hải sản nuôi, mà còn mở ra hướng đi mới đầy triển vọng trong việc phát triển bền vững nghề nuôi cá tại Nha Trang./.
Nguyễn Lê Ái Vũ
Cá Mú Trân Châu Hiệu Quả Kinh Tế Cao
I. Vận chuyển cá giống
Để giảm thiểu hao hụt và đảm bảo sức khỏe cho cá khi phải vận chuyển đi xa, cần phải biết cách xử lý cá trước khi vận chuyển đồng thời nắm rõ các biện pháp kỹ thuật vận chuyển.
Cá mú giống
1. Xử lý cá trước khi vận chuyển
Cá mú con đánh bắt ngoài tự nhiên phải được nhốt tạm từ 1-2 tuần trong bể hoặc trong thùng có sục khí liên tục. Hai ngày đầu không cần cho ăn. Từ ngày thứ 3, cho ăn ít và tăng liều lượng lên dần. Sau đó dùng các học lưới với kích cỡ mắt lưới khác nhau để phan loại cá theo các kích cỡ sau đây:
– Cá bột nhỏ: 2,5-5cm
– Cá bột lớn: 5-7,5cm
– Cá giống nhỏ: 7,5-10cm
– Cá giống trung bình: 10-12,5cm
Sau khi phân loại, nên tắm cho cá bằng nước ngọt (từ 15-30 phút) để diệt các vi sinh vật có hại, sau đó mới vận chuyển về nơi ương nuôi. Lưu ý những con bị thương phải được nuôi dưỡng trong bể riêng, khi chúng hồi phục hoàn toàn thì mới vận chuyển về ao ương nuôi.
Với cá ương trong bể, thời điểm thu hoạch cá thích hợp nhất là vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát. Dùng vợt mềm vớt cá cho vào giai hoặc bể nước sạch đã chuẩn bị trước. Thao tác vớt phải nhanh và nhẹ nhàng.
Trước khi vận chuyển, phải nhốt cá trong giai nước sạch với mật độ dày để cho chúng quen dần với diều kiện sống chật hẹp và thải bớt phân. Có thể nhốt từ 8-12 giờ. Lưu ý: trong khoảng thời gian nhốt, không nên cho cá ăn.
2. Kỹ thuật vận chuyển cá
Trong quá trình vận chuyển cá giống, tỷ lệ sống và mức độ an toàn của cá phụ thuộc rất nhiều vào kỹ thuật vận chuyển. Trong đó các yếu tố như dụng cụ đựng cá, phương tiện vận chuyển, nhiệt độ thời tiết, lượng oxy hòa tan trong nước, khí độc trong mưa, thời gian vận chuyển…đều ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của cá. Áp dụng đúng biện pháp kỹ thuật sẽ giúp nâng cao tỷ lệ sống cho cá.
Phải ngưng cho cá ăn trong 24 giờ trước khi vận chuyển, đồng thời nên tắm cho cá bằng thuốc tím 0,15ppm (từ 5-10 phút) hoặc tắm bằng dung dịch Furacin 0,05% (từ 3-5 phút).
Có hai phương pháp vận chuyển cá: vận chuyển kín và vận chuyển hở.
– Phương pháp vận chuyển kín: vận chuyển cá bằng túi nilon có bơm oxy với áp suất thích hợp.
– Phương pháp vận chuyển hở: vận chuyển cá bằng thùng phuy, thùng tôn, thùng nhựa hoặc sót nilon.
* Phương pháp vận chuyển bằng túi nilon hoặc can nhựa được xem là phương pháp tiên tiến cho hiệu quả cao, vì vậy mà được rất nhiều người áp dụng.
* Phương pháp vận chuyển kín: Thường chứa cá trong túi nilon có bơm oxy rồi vận chuyển bằng các phương tiện như xe ô tô, máy kéo, ba gác máy, ghe, thuyền…
* Đóng túi: Dùng hai túi nilon có đáy bằng, cho vào khoảng 8 lít nước biển, nước được làm lạnh ở nhiệt độ 23-250C. Nếu vận chuyển trong thời gian dưới 8 tiếng thì nên cho lượng nước chiếm 4/5 túi. Nếu vận chuyển trong thời gian trên 8 tiếng thì nên cho lượng nước chiếm 2/3 túi. Vuốt hết không khí trong túi ra, bơm oxy vào, sau đó cho cá vào, tiếp tục bơm oxy vào đến khi căng túi, buộc túi lại. Cho túi cá vào thùng xốp, đặt các bao đá xung quanh để làm mát cá. Dán kín thùng xốp bằng băng keo rồi đưa lê phương tiện vận chuyển. Nên vận chuyển cá trên phương tiện có máy điều hòa nhiệt độ.
Mật độ cá trong túi: Mật độ cá trong túi nilon tùy thuộc vào kích cỡ của cá. Cá cỡ 2,5cm, nhốt từ 100-150con/lít nước; cá cỡ 5cm, nhốt từ 30-50con/lít; cá 7cm, nhốt từ 10-15con/lít.
Lưu ý: Nên vận chuyển cá lúc trời mát, tốt nhất là vào sáng sớm. Nếu vận chuyển cá trong mùa nắng thì phải che đậy kỹ càng, không để ánh nắng trực tiếp chiếu vào túi nilon vì có thể làm tăng nhiệt độ nước trong túi và dẫn đến chết cá. Sau 8 tiếng vận chuyển phải bơm oxy. Sau 16 tiếng phải thay nước và bơm oxy. Sau 24 tiếng phải cho cá nghỉ ngơi trong vèo lưới hay trong bể từ 8-12 giờ. Muốn vận chuyển tiếp phải đóng túi lại. Tổng thời gian vận chuyển cá không nên quá 50 giờ. Khi vận chuyển cá đến nơi, thao tác mở thùng phải nhẹ nhàng nhằm tránh làm cá hoảng sợ. Trước khi thả cá, phải cân bằng nhiệt độ và độ mặn nước ao và nước trong túi cá.
II. Kỹ thuật nuôi cá mú thịt
1. Chuẩn bị ao nuôi
* Chọn vị trí ao
Ao nên nằm ở vùng đất sét hay cát pha sét, tránh vùng đất phèn. Mực nước thủy triều ít nhất là 80cm. Phải có ao lắng để xử lý nước thải.
Ao nằm ở nơi có nhiều ánh sáng mặt trời, không bị bóng cây che khuất. Ao gần nguồn nước, gần nhà để tiện theo dõi và quản lý.
* Điều kiện ao nuôi
– Tùy theo từng điều kiện mà chọn ao có diện tích phù hợp, có thể từ 100m2 trở lên. Ao có độ sâu từ 1,5-2m. Độ sâu mực nước ao từ 1,2-1,5m. Bờ ao cao hơn mực nước ao trong năm, khoảng 0,5m để chống ngập.
– Cống, bọng phải được làm chắc chắn và thuận tiện cho việc cấp, thoát nước. Bờ ao phải đảm bảo không bị sạt lở, rò rỉ. Đáy ao bằng phẳng và dốc về bọng nước. Nếu có điều kiện thì trải bạt xung quanh bờ ao để ngăn cá đào hang. Bọng phải có lưới chắn để không cho cá ra ngoài cũng như không cho địch hại vào ao.
– Nguồn nước phải gần ao để thuận tiện cho việc cấp nước. Nước phải sạch sẽ, không bị ô nhiễm và phải chủ động suốt quá trình nuôi. Yêu cầu về chất lượng nước: nhiệt độ= 25-32oC, độ mặn= 20-30‰, pH= 7,5-8,5, độ trong = 30-45cm, hàm lượng oxy hòa tan= 4-8mg/L, NH3 ≤0-0,008mg/L, độ kiềm= 60-100mg/L.
– Thả một số ống tre hoặc ống nhựa (đường kính 10-20cm) vào ao để làm nơi cho cá ẩn nấp nhằm hạn chế cá tấn công lẫn nhau đồng thời giúp việc kiểm tra và thu hoạch cá được đễ dàng.
* Cải tạo ao
– Tháo nước cạn ao và dọn sạch rác, bắt hết cá tạp và địch hại như: rắn, cua, ếch…Có thể diệt tạp bằng Rotenon (liều lượng 40kg/ha), bánh bã trà (liều lượng 150-200kg/ha). Vét bớt lớp bùn thối lâu ngày ở đáy ao. Tu bổ lại bờ ao, cống rãnh. San lắp các lỗ mọi rò rỉ.
– Rải vôi bột xuống đáy ao và xung quanh ao để diệt khuẩn và điều chỉnh độ pH, liều lượng sử dụng: 10-15kg/100m2. Sau đó phơi nắng đáy ao khoảng 3-4 ngày.
– Lấy nước: Lần đầu chỉ lấy nước ở mức 0,4-0,5cm, sau đó bón phân rồi lấy đủ nước. Lưu ý: nước phải chảy qua lưới lọc để ngăn cá tạp và địch hại.
– Bón phân cho ao: Sau khi lấy nước lần đầu, tiến hành bón phân để gây màu nước và tạo nguồn thức ăn tự nhiên. Có thể bón phân chuồng (2tấn/ ha), cách bón: rải đều phân khắp đáy ao; phân urê (25kg/ha); hoặc phân Diamonium phosphat (50kg/ha), cách bón: hòa tan phân trong nước rồi tưới đều khắp đáy ao.
– Sau 4-5 ngày bón phân là có thể thả giống.
2. Chọn và thả cá giống
– Nên chọn cá giống có kích cỡ càng lớn càng tốt, từ 8-15cm. Cá giống càng lớn thì tỷ lệ hao hụt càng ít. Tốt nhất là lấy cá giống sinh sản nhân tạo ở các trại cá uy tín, hạn chế lấy cá từ nguồn khai thác tự nhiên.
– Chọn cá giống khỏe mạnh, màu sắc tươi sáng, bơi lội nhanh nhẹn, không bị say sát, không bị dị hình hay dị tật.
– Mật độ nuôi: nên thả với mật độ thưa, khoảng 2-3con/m2.
Cách thả cá:
Nên thả cá lúc trời mát, tốt nhất là vào sáng sớm hoặc chiều tối. Trước khi thả cá xuống ao, nên cân bằng nhiệt độ và độ mặn. Trường hợp cá giống đựng trong bọc nilon, thì phải ngâm bọc cá trong nước ao khoảng 10-15 phút để nhiệt độ cân bằng với nhiệt độ nước ao, sau đó mới mở bọc và thả cá ra từ từ. Trường hợp cá giống đựng trong thùng hoặc can nhựa…thì trước khi cho cá vào bể, phải cho chúng qua một cái chậu lớn, từ từ thêm nước ao vào chậu để chúng thích nghi dần với điều kiện mới, sau khoảng 15 phút mới thả cá vào ao. Tuyệt đối không cho cá vào ao một cách đột ngột hoặc đứng trên bờ đổ cá xuống ao vì sẽ làm cho cá dễ bị sốc và chết.
3. Cho ăn và chăm sóc
a. Thức ăn
– Nhiều người dùng thức ăn là cá rô phi: thả cá rô phi (5000-10000 con/ha) trước khi thả cá mú 1 tháng. Khi thả cá mú vào ao thì chúng có thức ăn ngay.
Cá mú thịt
– Ngoài ra cũng có thể cho ăn bằng các loại cá tạp tươi cắt nhỏ như cá cơm, cá trích, cá nục, cá liệt…
b. Cách cho ăn
– Để cá dễ ăn và dễ quản lý thức ăn, nên cho thức ăn vào sàn và đặt vào nhiều vịu trí trong ao cho cá ăn, nên đặt sàn ở 4 góc ao và giữa ao, sàn cách mặt nước khoảng 0,5-0,6m.
– Thức ăn của cá (các loại cá tạp) phải được rửa sạch, cắt thành từng miếng nhỏ vừa với cỡ miệng cá ăn.
– Mỗi ngày cho ăn hai lần, vào buổi sáng (7 giờ) và chiều mát (17 giờ); khẩu phần ăn hằng ngày bằng 7-10% tổng trọng lượng có trong ao (cứ 100 kg cá thì cho 7-10kg thức ăn), và giảm dần theo sự tăng trọng của cá. Khi cá đạt 200g/con trở lên, thì cho ăn ngày một lần và khẩu phần ăn giảm xuống còn 5%.
– Nên cho cá ăn đúng giờ và cho ăn từ từ.
– Định kỳ trộn Vitamin C và Premix khoáng vào thức ăn để tăng cường sức đề kháng bệnh cho cá. Lượng Vitamin C và Premix chiếm khoảng 2% lượng thức ăn.
c. Chăm sóc
– Thường xuyên theo dõi cá ăn để đánh giá được mức ăn của chúng mà điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp tránh tình trạng thiếu hoặc thừa. Thiếu thức ăn thì cá chậm lớn, thừa thức ăn thì sẽ gây ô nhiễm nước và ảnh hưởng đến sức khỏe của cá.
– Duy trì màu xanh nước ao bằng cách định kỳ bón thêm phân chuồng. Khoảng 15 ngày bón 1 lần, liều lượng: 10-15kg/100 m2 ao.
– Định kỳ (1 tuần 2 lần) thay nước vào ao, mỗi lần thay khoảng 20-40% lượng nước ao, tùy theo chất lượng ao. Khi thấy nước có màu xanh quá đậm, màu xám hay có mùi hôi do tảo hoặc thức ăn phân hủy thì phải thay nước ngay. Có thể dùng nước thủy triều hoặc nước bơm từ ao chứa để thay. Khi thay nước, nên xả phần nước ở đáy rồi bơm nước mới vào. Nước dẫn vào ao phải qua lưới chắn để ngăn cá tạp và địch hại.
– Thường xuyên kiểm tra các yếu tố chất lượng nước như nhiệt độ, độ mặn, độ pH…, và phải giữ cho các chỉ số này luôn ổn định.
– Thường xuyên theo dõi hoạt động của cá, nếu thấy có dấu hiệu bất thường thì phải kiểm tra ngay để xử lý kịp thời.
– Thường xuyên kiểm tra bờ ao, cống rãnh để khắc phục kịp thời khi bị sạc lở, rò rỉ.
– Hàng tuần lọc và phân đàn kích cỡ cá để tránh tình trạng cá lớn ăn cá bé đồng thời tăng không gian sống cho chúng.
4. Thu hoạch
Sau 6-10 tháng nuôi (tùy theo kích cỡ của cá giống) là có thể thu hoạch cá thịt, kích cỡ cá thường phẩm từ 0,6-1kg/con. Có thể thu tỉa những con cá lớn hoặc thu hoạch toàn bộ để lấy ao nuôi vụ khác.
Trước khi thu hoạch 2 giờ, nên khuấy mạnh nước để tránh trường hợp cơ của cá bị cứng. Đặt một lồng lưới trong ao để giữ tạm cá. Chuẩn bị các thau, chậu máy sục khí để đựng và bảo quản cá.
Thu hoạch toàn bộ: Tháo bớt một lượng nước ao, dùng lưới đánh bắt vài lần, sau đó tháo cạn nước và bắt toàn bộ. Nên thu hoạch vào lúc trời mát để cá ít bị mệt. Cá sau khi thu hoạch thì cho vào các dụng cụ chứa để rửa sạch bùn và xả bớt chất thải, sau đó chuyển đến nơi tiêu thụ. Khi phải nhốt cá trong các dụng cụ chứa quá lâu thì cần phải sục khí để chúng không bị ngợp.
Nguồn: Tổng hợp bởi Farmtech Vietnam.
Hiệu Quả Mô Hình Nuôi Cá Hô Công Nghiệp
Gần đây, nghề đánh bắt cá hô tự nhiên dần đi vào “ngõ cụt”. Đó là lẽ tự nhiên khi con cá hô bị đánh bắt một cách vô tội vạ và loài cá quý hiếm của dòng Mê Công này đang được xếp vào loài có nguy cơ tuyệt chủng. Việc nuôi cá hô bằng mô hình công nghiệp không chỉ bảo tồn, phát triển loài cá hô mà còn là mô hình kinh tế khá thành công tại An Giang… * Thành công bước đầu
Với việc Trung tâm Quốc gia giống thủy sản nước ngọt Nam bộ thuộc Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II ở Cái Bè (Tiền Giang) nghiên cứu, lai tạo thành công loài cá hô quý hiếm năm 2006 đã mở ra một tương lai cho việc bảo tồn phát triển cá hô lưu vực sông Mê Công. Công ty cổ phần Nông ngư Quốc tế IFACO (An Giang) đã mạnh dạn làm cầu nối giữa trung tâm với một số nông dân tâm huyết với con cá hô tìm mua nguồn cá giống, bắt đầu thí điểm mô hình nuôi cá hô công nghiệp trong dân đầu tiên tại Việt Nam.
Người đầu tàu thí điểm mô hình nuôi cá hô công nghiệp là anh Lê Thành Nam ngụ tại ấp Bình Thủy, xã Bình Mỹ, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Anh Nam cho biết: “Giữa năm 2008, tôi nghe thông tin một số nông dân ở Hậu Giang đã bắt đầu nuôi cá hô trong ao hầm đang phát triển khá. Vốn đam mê con cá hô từ nhỏ, lại sống tại vùng đất là cái nôi nghề đánh bắt cá hô truyền thống, tôi dò hỏi anh Chinh bên Hiệp hội Nghề cá nhờ sự hỗ trợ nhiệt tình từ việc tìm con giống, hướng dẫn một số kỹ thuật cơ bản rồi bắt đầu thả nuôi cá hô ao hầm đến nay được hơn 3 tháng”.
Cá hô giống đang thuần dưỡng chuẩn bị thả nuôi ở An Giang.
Cùng với hộ anh Nam, hiện Công ty IFACO còn thí điểm song song mô hình nuôi cá hô công nghiệp xen cá rô phi và nuôi trên bè ở hai hộ ông Thái Văn Hưởng ở phường Bình Khánh và ông Lê Chí Bình ở xã Mỹ Khánh (thành phố Long Xuyên) với số lượng 500 con/hộ, mật độ 5m2/con cũng đang phát triển rất tốt.
* Thị trường ổn định
Từ những thành công bước đầu, anh Nam hồ hởi nói: “Với lợi thế kinh nghiệm nuôi cá ao hầm hàng chục năm, cùng với việc cá hô đang phát triển rất tốt như hiện tại, tôi tin chắc rằng chỉ sau 2-3 năm thả nuôi, lượng cá hô đang thả này sẽ mang về bạc tỉ. Nếu vụ cá hô lần này thành công, tôi sẽ đẩy mạnh việc phát triển ao nuôi, số lượng cá thả, hướng đến một mô hình nuôi cá hô công nghiệp với qui mô lớn”. Tuy nhiên, hiện anh Nam cũng rất băn khoăn khi nguồn cá hô giống giá quá cao, chỉ duy nhất một nhà cung cấp, những bệnh dịch sau 3 tháng nuôi chưa xuất hiện nhưng cách phòng tránh bệnh dịch vẫn chưa được phòng bị hiệu quả đã và đang là nỗi lo lớn nhất đối với anh.
Cá hô là loài cá lớn nhất thuộc họ cá chép có tên khoa học là Catlocarpio siamensis. Cá từ 5 đến 6 tuổi mới trưởng thành và nặng trung bình 10kg. Ở môi trường tự nhiên, cá nặng trên 100kg. Nếu nuôi theo mô hình công nghiệp, theo đúng quy trình, mỗi năm cá tăng trọng từ 2-3kg. Hiện cá hô vẫn đang là loài cá quý hiếm sống nhiều lưu vực sông Mê Công, nằm trong sách Đỏ thế giới.
Trao đổi với chúng tôi, ông Châu Minh Chinh, Trưởng phòng Tư vấn – Kỹ thuật – Thương mại Hiệp hội Nghề nuôi và Chế biến thủy sản An Giang (AFA), Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Nông ngư Quốc tế IFACO, cho biết: “Đây là loài cá quý hiếm có giá trị thương phẩm cao. Giá cá hô trên thị trường hiện từ 160.000 đến 180.000 đồng/kg nhưng không đủ nguồn cung, lại thích hợp với nguồn nước ngọt và thổ nhưỡng Đồng bằng sông Cửu Long. Hiện nay, công ty đang tích cực phối hợp với Trung tâm chuyển giao con giống, cung cấp các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật phòng trị bệnh, cung cấp nguồn thức ăn tốt nhất… cho những hộ nuôi thí điểm, nhằm tìm một hướng phát triển bền vững vừa bảo tồn được nguồn gien quý, vừa tạo mô hình chăn nuôi hiệu quả”. Ông Chinh còn cho biết thêm, nếu 3 mô hình thí điểm trên đạt thành công, chúng tôi sẽ đẩy mạnh việc phối hợp Trung tâm cung ứng từ 10.000 đến 20.000 con giống/tháng, loại 20 con/kg với giá cả phù hợp nhằm nhân rộng mô hình.
Theo thạc sĩ Thi Thanh Vinh, Chủ nhiệm Chương trình “Bảo tồn nguồn gien cá nước ngọt”, Trung tâm Quốc gia giống thủy sản nước ngọt Nam bộ, sau 3 năm sưu tầm lai tạo thuần chủng cá đến nay, Trung tâm đang có 40 con cá hô bố mẹ; lai tạo thành công gần 10.000 thế hệ cá hô bột F1 phục vụ các mô hình nuôi thí điểm. Hướng đến Trung tâm sẽ cung cấp lượng giống cá con dồi dào, cung cấp đại trà với giá cả phù hợp để con cá hô chính thức được bảo tồn.
Bài, ảnh: NGUYỄN HUỲNH
Cách Trồng Dong Riềng Đỏ Đạt Hiệu Quả Kinh Tế Cao
Cây dong riềng đỏ được trồng ở hầu hết các tỉnh thành trên cả nước nhưng tập trung với số lượng lớn ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Bắc Cạn, Lạng Sơn, Phú Thọ, Thái Nguyên…
Dong riềng đỏ thuộc loại cây thân thảo, thân nhẵn, không lông, thân cây màu tím, lá mọc so le có viền tím đỏ.
Đây là loại cây chịu được bóng rợp, có thể trồng dưới tán cây thưa, góc vườn… hoặc những nơi có diện tích nhỏ hẹp.
Giá trị của cây dong riềng đỏ
Trong y học: theo đề tài nghiên cứu khoa học của Bác sĩ Hoàng Sầm “NGHIÊN CỨU DỊCH CHIẾT CÂY DONG RIỀNG ĐỎ ỨNG DỤNG HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ CƠ TIM THIẾU MÁU CỤC BỘ ” đã cho ra kết quả trong mỗi kg củ cây dong riềng đỏ có khoảng 6g glucosid trợ tim và 7,4g cumarin chống đông máu. Còn trong 15g củ đã sấy khô khi dùng hàng ngày sẽ cung cấp cho cơ thể khoảng 12mg cumarin có tác dụng làm dãn mạch, chống đông máu làm tắc mạch vành, giảm cơn đau do nhồi máu cơ tim và 12mg glucoside trợ tim. Ngoài ra dưới tác dụng của hợp chất ancaloid khi sử dụng hàng ngày sẽ bào mòn các mảng xơ vữa bám ở mạch máu giúp cho máu lưu thông tốt hơn. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, các hoạt chất không chỉ chứa trong củ mà còn có ở trong thân và lá. Thậm chí hợp chất cumarin chống đông máu có hàm lượng ở thân còn cao hơn ở trong củ. Vì vậy nhiều chuyên gia khuyên rằng người bệnh không nên bỏ đi bất cứ bộ phận nào của cây để đạt hiệu quả tối ưu nhất.
Trong thực phẩm: phần củ của cây dong riềng đỏ được sử dụng để sản xuất miến – món ăn rất được ưa thích của người Việt.
Cách trồng dong riềng đỏ đạt hiệu quả kinh tế cao
Chuẩn bị nơi trồng cây và làm đất trồng cây:
Nếu trồng dong riềng đỏ tại nhà thì có thể tận dụng những khoảng đất hẹp như góc vườn, bờ ao, mép rào,… vì đây là loại cây có thể sinh sống dưới bóng rợp. Còn đối với những hộ gia đình làm kinh tế trồng tập trung với quy mô lớn thì nên cày bừa và làm đất kỹ lưỡng. Trồng theo hàng với khoảng cách hàng cách hàng khoảng 60cm, trước đó nên bón lót với phân chuồng hoặc phân vi sinh, khoảng cách trồng giữa các cây trên hàng là từ 50 đến 60 cm. Tuỳ vào điều kiện thổ nhưỡng ở mỗi nơi mà chúng ta lựa chọn bón lót hay không bón lót. Ví dụ như ở những vùng đất miền núi giàu chất hữu cơ, nhiều mùn hoặc vùng đất mới khai hhoang lần đầu thì không cần bón lót.
Cách trồng cây dong riềng đỏ:
Dong riềng được trồng chủ yếu từ cuối tháng 2 đến tháng 5 dương lịch, đó cũng là thời vụ thích hợp để trồng cây tốt nhất. Dong riềng đỏ có thể trồng trực tiếp bằng củ hoặc cây con tách từ cây mẹ ra. Lưu ý khi chọn giống để cây có thể phát triển tốt thì nên chọn các củ giống đồng đều không trầy xước và sạch bệnh. Mỗi củ có thể cắt thành nhiều phần mỗi phần có từ 2 đến 3 mắt để tiết kiệm chi phí giống. Vì cây phát triển củ theo chiều ngang và rễ ăn sâu nên khi làm đất cần cay sâu khoảng 15 – 20 cm, làm tơi đất và sạch cỏ. Đối với vùng đồi núi thì nên đào sâu hơn 20 – 25 cm vì đất ở đây thường cứng hơn. Sau khi làm đất xong, thực hiện bón lót lần 1, tuỳ vào điều kiện của mỗi hộ gia đình mà có những cách bón lót khác nhau nhưng trung bình là 300 – 500 kg phân chuồng , 15 – 20 kg lân cho 1 sào Bắc bộ, sau đó phủ lớp đất mỏng lên trên, đặt củ giống lên trên. Khi đặt thì xoay mầm củ hướng lên trên, thực hiện bón lót lần 2, bón ở khoảng cách giữa 2 củ rồi lấp đất, phủ rơm rạ lên trên để giữ ẩm.
Chăm sóc cây sau khi trồng:
Thời gian đầu nên thường xuyên tưới để giữ độ ẩm cho cây có thể nẩy chồi nhanh. Khi cây đã ra rễ có thể tưới thêm phân chuồng pha loãng. Để cây sinh trưởng tốt hơn cần bón thúc cho cây. Lưu ý khi bón đó là không bón trực tiếp vào gốc mà bón vào khoảng giữ hai khóm. Để tránh tình trạng cây gãy đổ cần thực hiện vun gốc thường xuyên khi cây phát triển cao hơn. Để củ to hơn có thể phủ mùn mục hoặc trấu vào gốc cây, nếu không có thì có thể bón thêm kali để tăng năng suất và chất lượng củ. Việc làm cỏ cũng không quá phức tạp và tốn công vì dong riềng đỏ sinh trưởng rất nhanh nên chỉ cần làm sạch cỏ 1 – 2 tháng đầu sau đó khi cây đã lan tán rộng thì cỏ không thể phát triển được nữa. Nên lưu ý thêm về việc thoát nước trong mùa mưa để tránh củ bị thối do úng ngập.
Phòng trừ sâu bệnh:
do dong riềng đỏ có tính cay nên ít bị sâu bệnh hay chuột phá hoại mùa màng, chủ yếu là bị sâu xanh, sâu khoang, bọ nẹt nên chỉ cần loại bỏ bằng phương pháp thủ công.
Thu hoạch:
Trong trường hợp lấy củ làm giống thì có thể thu hoạch sau khi khoảng trồng 1 năm, nhưng nếu để thu hoạch lấy củ bán thì nên thu hoạch sau 2 năm trồng khi đó cây mới cho chất lượng tốt, sản lượng cao. Khi thấy dong riềng đỏ đã già, thân ngầm và củ đã nổi rõ hoặc làm nứt mặt đất quanh gốc thì đào thử nếu thấy củ đã già là có thể thu hoạch được. Sau thu hoạch có thể cắt sạch rễ, rửa sạch bán tươi hoặc thái phơi khô theo yêu cầu của nơi tiêu thụ.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Hiệu Quả Kinh Tế Của Mô Hình Cá Mú Đìa trên website Nhahangchacangon.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!