Cập nhật nội dung chi tiết về Giới Thiệu Chung Về Cá Tầm mới nhất trên website Nhahangchacangon.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Cá tầm (Sturgeon) thuộc gia đình cá Acipenseridae, một loài cá được xem là ‘bán khai’ (primitive). Cá có thân dài và rất thuôn, di chuyển nhiều và thay đổi vùng sinh thái. Cá tầm có thể cân nặng đến hơn 1 tấn và dài trên 4m. Cá xuất hiện trên trái đất khoảng hơn 100 triệu năm trước, và hiện chia làm 4 chủng loại khác nhau gồm 25 loài, bao gồm cá tầm trắng, cá tầm mũi ngắn, cá tầm sao, beluga và sterlet. Vài loài chỉ sinh sống nơi vùng nước ngọt, có loài sống ngoài biển khơi nhưng bơi ngược trở về sông để đẻ trứng.
Cá tầm không chỉ là loài cá nước ngọt lớn nhất mà còn là loài sống lâu nhất: Có con sống đến hơn 150 tuổi. Tuổi của cá phù hợp với chiều dài thân cá: Cá 12 tuổi dài chừng 1,2 m; và cá 20 tuổi chừng 1,8 m. Cá chỉ gặp ở vùng Bắc Bán Cầu và thường gặp tại Bắc Ðại Tây Dương, Bắc Thái Bình Dương, Vùng Biển Caspian, Biển Ðen, tại nhiều sông và hồ như sông Delaware, Rhin, Garonne, Elbe, Volga, Danube và hồ Ladoga.
Kỹ thuật nuôi cá tầm bạn cần nắm
Cá tầm Sterlet Tên khoa học: Acipenser ruthenus (Linnaeus, 1758)
Cũng như cá đuối, cá mập, cá tầm thuộc loại cá không xương: bộ xương chỉ là những sụn. Thân cá hình ống gồm 5 hàng xương gai (sụn), da dầy, nhám không vảy, màu sắc thay đổi tùy loài, tuổi và tùy vùng sinh thái. Ðuôi cá dạng chia chẻ đôi. Miệng cá nhỏ nằm ngang, không răng; mũi dài nhọn có 4 râu hình trụ cứng, dùng quậy để kiếm mồi.
Loài cá tầm Sterlet sống ở biển Caspian, Biển Đen, Azov, chúng tôi cư vào các sông như Volga, Đa nup để sinh sản hàng năm. Cá tầm Sterlet có thể nặng đến 16 kg, dài từ 100-125 cm, có màu xám ở mặt lưng và hơi vàng ở mặt bụng. Nguồn thức ăn chủ yếu của cá là động vật đáy như giáp xác, giun, ấu trùng côn trùng, nhuyễn thể. Cá có tuổi thọ từ 22-25 năm. Tuổi thành thục của cá cái từ 3-7 năm và cá đực từ 5-12 năm. Sức sinh sản từ 15000-44000 trứng/cá mẹ. Thời gian sinh sản từ giữa tháng 4 đến đầu tháng 6 khi nhiệt độ nước dao động từ 12-17oC. Cá tầm Sterlet được dùng để tạo con lai
Cá tầm Nga Tên khoa học: Acipencer gueldenstaedtii Brandt, 1833 Tên tiếng Anh: Russian Sturgeon
Cá tầm Nga phân bố chủ yếu ở Azerbaijan, Bulgaria, Georgia, Iran, Kazakhstan, Romania, Russia, Thổ nhĩ kỳ và Ukraine. Lòai cá này có thể lớn cỡ 190 cm và 113 kg. Cá tầm Nga không thể sinh sản và thành thục sớm nên trong tự nhiên quần đàn của chúng rất nhỏ, được xếp vào sách đỏ thế giới mức báo động đỏ EN. Cá tầm Nga là loài lớn (cá trưởng thành dài cỡ 1,7 m, có thể lớn đến 5,5 m nặng 200 kg), sống trong vùng Biển Ðen, Azov, và Caspian, đẻ trứng trong sông. Mõm ngắn và bằng.
Phân biệt đực cái
Cá tầm Siberia Tên khoa học: Acipencer baerii Brandt, 1833 Tên tiếng Anh: Siberian Sturgeon
Phân biệt đực cái có ý nghĩa rất quan trọng trong kỹ thuật nuôi cá tầm. Người ta thường phải nuôi riêng cá đực và cá cái để có chế độ chăm sóc khác nhau. Mặt khác kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hiện nay không cần phải có nhiều cá đực. Do tuổi phát dục cá tầm rất muộn nên phân tách sớm cá đực và cá cái giúp giảm chi phí nuôi vỗ, trong khâu sinh sản nhân tạo tránh được lãng phí thuốc khi tiêm nhầm cá.
Đáng tiếc là các loài cá tầm đều rất khó phân biệt theo hình thái ngoài, nhất là khi cá chưa phát dục đầy đủ. Người nuôi chuyên nghiệp ở Nga có thể căn cứ vào mầu sắc cá trưởng thành để phân biệt.
Một số loài như cá tầm mõm ngắn ( A. brevirostrum), cá tầm Đại tây dương ( A. oxyrinchus oxyrinchus) và cá tầm trắng ( A. transmontanus) có thể căn cứ hình dạng lỗ niệu sinh dục cá trưởng thành để phân biệt đực cái đạt độ chính xác đến 82%.4
Chỉ số cực hoá của trứng (PI)
Hiện nay có nhiều đề tài nghiên cứu nhằm xác đinh sớm giới tính của cá tầm nhưng kết quả chưa thực sự chưa rõ ràng và ít có khả năng áp dụng vào thực tế sản xuất.
Xác định thời điểm thích hợp để tiêm kích thích tố kích thích cá rụng trứng là khâu quan trọng quyết định kết quả của công tác sinh sản nhân tạo. Nếu xác đinh sai cá sẽ không đẻ hoặc chỉ đẻ một phần thậm chí làm cho cá chết mà không thu được kết quả. Trong số các chỉ tiêu hình thái bề ngoài dễ xác đinh nhưng lại có độ tin cậy cao đó là chỉ số cực hoá của trứng tính bằng mức độ di chuyển nhân trứng về cực động vật.
Khi trứng cá đã phát triển đầy đủ chuẩn bị đi đẻ, đường kính hạt trứng đạt đến đường kính lớn nhất. Tuỳ theo đặc điểm di truyền của từng loài mà đường kính trứng lúc này có độ to nhỏ khác nhau.
Thí dụ như cá tầm xanh (Acipenser medirostris) có đường kính trứng lớn hơn cả dao động trong khoảng 4.0 – 4.7 mm, trong khi đó cá steliat (A. ruthenus) có đường kính trứng vào loại nhỏ nhất chỉ có 2.0 – 2.8 mm. Đường kính trứng của cá beluga (Huso huso) là 3.6 – 4.3 mm, của cá tầm Nga (A. gueldenstaedti) là 3.2 – 3.8 mm, của cá Sevruga (A. stellatus) là 2.7 – 3.2 mm, của cá tầm trắng (A. transmontanus) là 3.2 – 4.0 mm, của cá tầm siberi (A. baerii) là 2.4 – 3.0 mm.
Người ta lấy khoảng 20 – 30 hạt trứng bằng que thăm trứng (Hình 6A và 6B) thông qua lỗ niệu sinh dục hay rạch một đường nhỏ dài khoảng 3 – 5mm bên sườn cá phía trên vùng buồng trứng để móc trứng ra.
Cho trứng vào cốc đốt cùng với 15 – 20ml dung dịch Ringer đun sôi trong 5 phút. Sau đó cho nguội nhanh trong nước đá khoảng 15-30 phút. Lúc này trứng có thể cắt và đo dễ dàng. Nếu ngâm tiếp trong dung dịch formalin 10% qua đêm thì việc cắt sẽ dễ dàng hơn.
Cắt trứng bằng lưỡi dao lam theo đường trục nối 2 cực động vật và thực vật. Chỉ số PI được tính bằng tỷ số khoảng cách từ mép ngoài nhân đến vỏ trứng phía cực đông vật so với khoảng cách giữa 2 cực động và thực vật (hình 7).
Hormon kích thích rụng trứng
Người ta chọn cá cái để tiêm cho đẻ khi chỉ số PI dưới 0,10, tốt nhất là trong khoảng 0,06 – 0,08.
Hormon thường dùng trong sinh sản nhân tạo cá tầm trước đây là hypophis của cá chép hoặc cá tầm. Liều lượng dùng với cá steliat ( Acipenser ruthenus) là 2 mg/kg đối với cá đực và 5 mg/kg đối với cá cái.
Tỷ lệ cá cái rụng trứng sau khi tiêm dao động trong khoảng 39-86%. Tỷ lệ cá cái sau 1 năm thành thục trở lại là 40 – 50%; sau 2 năm là 27 – 34%. Hiện nay hoạt tính kích thích tố của hypophis được chiết xuất bằng glycerine để loại trừ tạp chất và làm cho liều lượng được chuẩn hoá.
Ngoài hypophis ra người ta đã tìm được nhiều loại kích thich tố thay thế, kết quả cũng khá ổn định. Loại kích thích tố dùng phổ biến hơn cả là GnRH (Gonadotropin-releasing hormone) trước đây thường gọi là Luteinising-hormone releasing hormone (LHRH). Đây là một loại hormone kích thích giải phóng FSH và LH có nguồn gốc từ hypothalamus.
Hiệu quả kích thích rụng trứng của GnRH mạnh gấp hàng nghìn lần hypophis. Người ta đã có thể tổng hợp được dạng tương tự với GnRH có giá rẻ hơn nhiều so với hypophis. Surfagon là một dạng của GnRH được bán dưới dạng dung dich NaCl.
Ovopel do trường đại học Godollo của Hungary sản xuất. Nó được chế tạo từ GnRH và chất kháng dopamin, là dạng viên dễ tan trong nước. Hoạt tính mỗi viên ovopel tương đương với 3 mg hypophis cá chép khô.7 Liều lượng và cách tiêm cho cá tầm được trình bày ở bảng 10.
YÊU CẦU CHẤT LƯỢNG NƯỚC ĐỐI VỚI CÁ TẦM (Tiêu chuẩn OCT 15.372-84) Kỹ thuật cho cá qua đông
Kích thích tố dùng trong sinh sản nhân tạo cá tầm hiện nay ở Nga:
Ở những vùng phía Nam nhiệt độ nước quanh năm đều cao hơn nhiều so với nhiệt độ mùa đông nguyên gốc của cá tầm nên dù cá được nuôi vỗ tốt đến mấy thì tuyến sinh dục cũng không thể phát triển đầy đủ và cá chưa thể sẵn sàng phản ứng với kích thích tố.
Một trong những khâu then chốt trong việc nuôi cá tầm để sản xuất caviar hay sinh sản nhân tạo là cho cá qua đông nhân tạo. Căn cứ vào đặc điểm di truyền của từng loài mà người ta xác định chế độ qua đông thích hợp.
Trong thời gian qua đông cá được giữ trong bể xi măng hay composit trong môi trường nước chảy và hàm lượng ôxy hoà tan cao. Người ta hạ dần nhiệt độ xuống 8 – 12 oC tuỳ theo loài. Giữ cá ở nhiệt độ này trong vòng 2 – 3 tuần, sau đó nâng dần nhiệt độ trở lại bằng nhiệt độ môi trường.
Vấn đề chất lượng caviar (trứng cá tầm)
Thời gian qua đông nhân tạo cá không ăn, buồng trứng được kích thích chuyển hoá hoàn tất. Sau khi qua đông trọng lượng cá giảm đi 5 – 12%. Giải pháp kinh tế và đạt hiệu quả nhất để cho cá qua đông nhân tạo là giữ cá trong hệ thống nuôi nước tuần hoàn qui mô nhỏ.
Có thể nói xu hướng nuôi cá tầm của thế giới hiện nay chủ yếu là sản xuất caviar. Vấn đề truy xuất nguồn gốc sản phẩm caviar cần đặt ra. Để chứng minh cho SITES sản phẩm caviar làm từ cá nuôi là điều có thể làm được. Cái khó hiện nay là phân biệt hàng giả và hàng thật, nhất là hiện nay công nghệ làm caviar mô phỏng đã được hoàn thiện và có được patent ở Mỹ. Người mua có thể bị nhầm lẫn, từ đó làm giảm giá trị thực của caviar chính gốc.
Một vấn đề khác về chất lượng caviar là kỹ thuật chế biến caviar từ trứng đã rụng sau khi tiêm kích thích tố. Hiện nay để triệt để tận dụng nguồn cá bố mẹ người ta không giết cá để lấy trứng mà tiêm kích thích tố kích thích cho cá rụng và chảy trứng.
Cá mẹ sau khi vuốt hết trứng được nuôi lại sau 1-2 năm lại có thể thu trứng đợt khác. Như vậy một cá mẹ có thể sản xuất được nhiều lần thay vì chỉ cho trứng 1 lần như trước.
Tiêu chuẩn tạm thời nuôi cá tầm ở Nga
Tuy nhiên trứng sau khi phản ứng với hormon sẽ mềm và mỏng so với trứng lấy trực tiếp từ cá mẹ. Gia công trứng loại này cần làm cho hạt trứng không bị vỡ săn chắc như caviar truyền thống. Nga đã áp dụng kỹ thuật này đầu tiên, nhiều nước cũng đang thí nghiệm áp dụng. Tuy nhiên sự khác nhau về chất lượng giữa 2 loại caviar này có hay không vẫn chưa có tài liệu nào kiểm chứng6.
Năm 1984 Nga ban hành tiêu chuẩn tạm thời về yêu cầu chất lượng nước đối với việc nuôi cá tầm áp dụng cho vùng Astrakhan của Liên xô (bảng 11). Hiện nay tiêu chuẩn này vẫn có thể dùng để tham khảo cho các cơ sở nuôi cá tầm của Việt nam.
Mong rằng bạn đọc đã có những câu trả lời cho thắc mắc của mình trong bài viết giới thiệu chung về cá tầm này.
Câu Hỏi Thường Gặp
Giới Thiệu Về Dasbrain®
Mỗi viên nhai nang mềm DASBRAIN® có chứa 1000mg dầu cá Ngừ tự nhiên cung cấp 260mg Docosahexaenoic Acid (DHA) và 60mg Eicosapentaenoic Acid (EPA), tương đương tổng lượng 320mg axit béo omega-3 triglycerides. Dầu cá Ngừ tự nhiên được sử dụng trong viên thuốc DASBRAIN® nhằm cung cấp một liều tối ưu các axit béo omega-3 (DHA và EPA), đặc biệt là hàm lượng DHA cao hơn nhiều (260mg) so với các loại dầu cá thông thường (~120mg DHA).
Xuất xứ và quản lý chất lượng của DASBRAIN®
DASBRAIN® được sản xuất tại Úc theo tiêu chuẩn Thực hành Sản xuất Tốt (GMP) của Cục Quản lý Dược Phẩm Úc (TGA) để đảm bảo chất lượng, độ an toàn và tính hiệu quả. Với tư cách là thành viên của 2 tổ chức Dược phẩm quốc tế là ICH (Hội đồng quốc tế về hài hòa các thủ tục đăng ký dược phẩm sử dụng cho con người) và PICs (Công ước thanh tra dược phẩm), tiêu chuẩn TGA-GMP (Australia) đảm bảo rằng các dược phẩm được sản xuất luôn tuân thủ các nguyên tắc về chuẩn mực chất lượng cao nhất được thế giới công nhận.
Tại Úc DASBRAIN® được đăng ký với tiêu chuẩn thuốc bổ sung, đồng thời cũng đã được cấp số đăng ký thuốc tại Việt Nam. Như vậy, với sự quản lý chặt chẽ của cả cơ quan quản lý Dược phẩm Úc, các tổ chức Dược phẩm quốc tế và của Việt Nam, bạn có thể an tâm với chất lượng của thuốc khi sử dụng.
Điểm đặc biệt về thành phần dầu cá Ngừ tự nhiên trong DASBRAIN®
Thành phần dầu cá Ngừ tự nhiên trong DASBRAIN® được sản xuất bởi nhà máy Lysi từ nguồn cá ngừ tươi Iceland, tuân thủ theo các tiêu chuẩn nghiêm ngặt của Dược điển Anh và các quy định chặt chẽ của châu Âu đối với thuốc và thực phẩm. Bên cạnh đó, nhà máy sản xuất dầu cá ngừ Lysi còn đồng thời được chứng nhận đạt tiêu chuẩn của 6 tổ chức quốc tế:
Để có thể được sử dụng trong các thuốc lưu hành tại Úc, thành phần dầu cá này cũng bắt buộc phải đạt được các tiêu chuẩn chất lượng do Cục Dược Úc đặt ra.
Như vậy, với cả nguồn nguyên liệu & thành phẩm đạt các chứng nhận cao nhất trong ngành dược phẩm, bạn có thể hoàn toàn an tâm với chất lượng của sản phẩm DASBRAIN®
Khi nào thì bạn có thể sử dụng DASBRAIN® ? (Các chỉ định của thuốc)
Ở Việt Nam, DASBRAIN® được phép chỉ định cho các trường hợp sau:
Hỗ trợ các chức năng não bộ/khả năng nhận thức, trí nhớ, khả năng tập trung, khả năng kiểm soát hành vi;
Tăng cường hệ miễn dịch, làm giảm tần suất dị ứng và các triệu chứng dị ứng.
Hướng dẫn sử dụng:
Bạn có thể sử dụng 1 viên DASBRAIN® mỗi ngày cho trẻ em (từ 6 tháng trở lên) và người lớn (bao gồm phụ nữ có thai và cho con bú) hoặc theo hướng dẫn của bác sĩ.
Tại sao DASBRAIN® lại được bào chế ở dạng viên nhai nang mềm?
Để cung cấp đủ liều Omega 3 (DHA & EPA) như có trong DASBRAIN® thì 1 viên dầu cá thông thường sẽ rất to, rất khó nuốt và chắc chắn không thể dùng cho trẻ em hay những người già có khó khăn trong việc nuốt viên thuốc cứng/to.
Sử dụng công nghệ đặc biệt được bảo vệ bản quyền, DASBRAIN® đươc bào chế và ra đời dưới dạng viên nhai nang mềm với vị thơm ngon của dâu tây và cam cũng như vị ngậy béo của dừa. Viên DASBRAIN® rất dễ sử dụng vì bạn có thể nhai nó và ăn cả viên, hoặc vắt dung dịch thuốc vào thìa hoặc vào thức ăn. DASBRAIN® phù hợp cho tất cả mọi người từ trẻ sơ sinh từ 6 tháng tuổi, trẻ em, đến người lớn, phụ nữ mang thai và cho con bú, và ngay cả người già, là những người gặp khó khăn trong việc nuốt viên thuốc cứng/to.
Tại sao lại sử dụng dầu cá Ngừ tự nhiên mà không sử dụng các dầu cá khác?
Về mặt sinh lý, DHA là thành phần quan trọng của màng tế bào, đặc biệt là ở não và võng mạc. Sự tích lũy DHA ở não được bắt đầu ngay từ khi thai nhi còn trong bụng mẹ. Việc tích lũy DHA ở não vẫn tiếp tục sau khi trẻ ra đời. Ở võng mạc, DHA chiếm 50% tổng lượng axit béo ở phần ngoài của tế bào nón và que. Trong khi đó, các axit béo không no chuỗi dài omega-3 khác (trong cùng họ) lại không tích tụ ở mắt và não đang phát triển tới mức độ đáng kể. DHA có thể được chuyển hóa từ ALA (axit béo alpha linolenic) và EPA, nhưng cơ thể chúng ta không thể tổng hợp những axit béo không no chuỗi dài này. Do vậy, chúng ta cần phải tìm cách thu nạp được chúng từ các nguồn dinh dưỡng bên ngoài.
“Khuyến cáo và Hướng Dẫn Thực hành Chu Sinh” của Hiệp hội Thuốc Chu Sinh Thế giới, Học viện Dinh dưỡng Sớm, và Quỹ Sức khỏe Nhi Đồng nói rõ vai trò quan trọng của các axit béo không no chuỗi dài omega-3, trong đó đáng chú ý là khuyến cáo phụ nữ mang thai và cho con bú nên dùng trung bình ít nhất 200mg DHA một ngày. Nhiều nghiên cứu uy tín khác cũng cho thấy tầm quan trọng của việc bổ sung đủ ít nhất 200mg DHA/ngày đối với đối tượng này.
Tóm tắt
DASBRAIN® có khả năng hỗ trợ các chức năng não bộ/khả năng nhận thức, trí nhớ, khả năng tập trung, khả năng kiểm soát hành vi; tăng cường hệ miễn dịch, làm giảm tần suất dị ứng và các triệu chứng dị ứng. Viên thuốc ở dạng viên nhai nang mềm với vị thơm ngon của cam, dâu tây và dừa, rất dễ sử dụng cho trẻ nhỏ (từ 6 tháng tuổi trở lên) cũng như những người lớn và người già có khó khăn khi nuốt viên thuốc lớn và cứng.
DASBRAIN® được sản xuất tại Úc theo tiêu chuẩn Thực hành Sản xuất Tốt (GMP) để đảm bảo chất lượng, độ an toàn và hiệu quả và đã được đăng ký Dược phẩm ở Việt Nam. DASBRAIN® sử dụng nguồn dầu cá Ngừ tự nhiên để đảm bảo cung cấp đủ mức omega-3 DHA cần mỗi ngày cho tất cả các đối tượng đặc biệt là các phụ nữ có thai và cho con bú. Với sự quản lý chất lượng chặt chẽ của nhà máy Lysi (Iceland), nguồn dầu cá Ngừ này đạt các tiêu chuẩn theo dược điển Anh, thuốc và thực phẩm châu Âu, cũng như các tiêu chuẩn của 6 tổ chức quốc tế khác, đảm bảo rằng chất lượng của DASBRAIN® được quản lý chặt chẽ từ việc sản xuất nguyên liệu tới thành phẩm.
Giới Thiệu Về Cá Vàng
Giới thiệu về cá vàng cho bạn mới
Họ: Cá chép – Cyprinidae
Phân bố: Nguyên sản ở Bắc Á và Đông Nam Á, hiện nay được phân bố rộng rãi ở rất nhiều nước.
Chiều dài: 8-13cm.
Cá vàng đã được nuôi trong bể cạn, non bộ, trong bể kính, trong hồ cá từ lâu ở nước ta, đã thích nghi với điều kiện sống.
Nó không đòi hỏi thức ăn cầu kỳ, yêu cầu nhiệt độ nước và chất lượng nước gắt gao. Cá thích nước cũ, có thể chịu mặn tối đa là 10% và chịu được hàm lượng oxy trong nước rất thấp. Tuy nhiên không nên dùng nước máy, vì nước máy đã được thanh lọc không đủ chất cho cá ăn; mặt khác trong nước máy có một số chất khử trùng như Cl, Fl, …, cá không chịu nổi sẽ bị hao mòn rồi chết. Nếu bắt buộc phải sử dụng nước máy, thì phải lấy nước này đem phơi nắng vài giờ để khử bớt các hợp chất không lợi trong nước, đồng thời nước cũng hòa tan được một số hợp chất hữu cơ có trong không khí; như vậy nước sẽ có tính chất gần với nước tự nhiên, lúc đó mới đổ vào bể nuôi cá được.
Cá vàng ăn được nhiều loại thức ăn khô hay thức ăn nhân tạo nhưng các thức ăn này cần kèm thêm mồi sống. Chúng thích ăn giun đỏ nhỏ bằng sợi (trùn chỉ). Cá vàng háu ăn, tìm mồi liên tục và cũng thải nhiều phân nên cần rút bẩn thường xuyên bằng ống xiphông.
Sự sinh sản được thực hiện dễ dàng trong một bể nuôi lớn có đầy đủ ánh sáng mặt trời. Vào mùa sinh sản, có thể nhận biết cá đực bởi một số đặc điểm sau: nắp mang có những nốt sần đẹp, trên ngực và cơ thể có khi cũng có nốt sần, cá tỏ ra bị kích thích và đuổi theo cá cái và xô đẩy nó; cá đực dùng nốt sần kích thích cá cái. Còn cá cái đến mùa sinh sản cũng có bụng to hẳn ra ở một bên, cá bơi lội chậm chạp, lỗ sinh dục màu đỏ hồng đến đỏ sẫm và hơi lồi ra. Sau một thời gian giao hoan rất hăng, cá cái chui vào trong đám cây cỏ, co mình và quậy mạnh để tiết trứng. Trong lúc đó, cá đực luôn bám sát cá cái và dùng các nốt sần cọ vào đầu vào bụng cá cái để kích thích đồng thời tiết tinh dịch để thụ tinh cho trứng.
Cá sinh sản gần như quanh năm nhưng thích hợp nhất là vào tháng 3, tháng 6. Cá đẻ nhiều đợt. Trứng (độ 1000 cho tới 10.000 cho mỗi con cái) nhỏ và trong suốt, được đẻ gần bề mặt nước, thường dính vào cây cỏ. Cần thận trọng đưa cá bố mẹ ra ngoài, hoặc tốt hơn là mang những cây có dính trứng cá đem ra đặt trong một bể nuôi khác. Cần lưu ý là nước trong bể này phải có cùng nhiệt độ và phẩm chất như nước trong bể cá đẻ.
Sự ấp trứng lệ thuộc vào nhiệt độ (21-24 độ C), xảy ra trong 4 ngày. Nếu nhiệt độ nước cao hơn thì thời gian ấp sẽ ngắn hơn, chỉ còn 2 ngày rưỡi đến 3 ngày. Ngược lại, nếu nhiệt độ thấp thì cá phải ấp trong 6-8 ngày. Cá bột nở ra có thể ăn được tảo và trùng cỏ. Nếu nhìn cá con đều một màu nâu, ta không hình dung được sự biến đổi về sau để cá có màu sắc của cá bố mẹ. Màu vàng hay đỏ bắt đầu thay thế màu nâu đồng, điều này chỉ vào khoảng ngày thứ 60 hay 80 và nhiệt độ của nước không quá 20 độ C. Về hình dạng, cá con được di truyền từ những đặc tính hình thức của cá bố mẹ, đã có thể phân biệt được kể từ những ngày đầu của đời sống của cá con.
Cá con ăn khỏe và lớn nhanh. Sau một tháng, có thể đạt kích thước 2-3cm. Nếu ương nuôi tốt, tỷ lệ sống đạt trung bình 60-70%. Sự trưởng thành sinh dục chắc chắn là vào năm thứ hai. Để tạo cá sinh sản, cần chọn các cá thể 3-4 năm tuổi. Được chăm sóc cẩn thận, các cá vàng nuôi trong bể kính có thể sống tới 30 năm.
Đăng Ký Thư Tuần Farmvina:
Giới Thiệu Về Cá Ông Tiên (Thần Tiên)
Cá ông tiên, hay còn được gọi là cá thần tiên, thuộc họ Cá rô phi – Cichlidae
Phân bố: Nam Mỹ (Guyan, Venezuela, sông Amazon với một số phụ lưu)
Chiều dài: tới 15 cm, tối đa 25 cm
Thức ăn: giun, động vật thân giáp, côn trùng, chất thực vật, thức ăn tổng hợp
Nhiệt độ nước: 22-30 độ C
Nuôi chung
Là loại cá kiểng nhiệt đới được ưa chuộng nhất. Xuất hiện trong thế giới cá cảnh từ đầu thế kỷ XX.
Cá Ông Tiên được nhập vào nước ta khoảng gần nửa thế kỷ nay.
Cá vừa đẹp vừa hiền, nuôi chung được với cá Tàu, cá Hồng Kim và vài giống cá kiểng khác.
Cá Ông Tiên có màu đen, sau này lai tạo ra được màu bạc trông lạ và hấp dẫn hơn.
Cá Ông Tiên có dáng tròn, thân dẹp, tuy mình không có màu sắc tươi tắn, nhưng nhờ có sự phối trí của cá vi kỳ như vi lưng, vi ngực, vi bụng quá dài nên khi di chuyển, cá tạo được sự mềm mại, thướt tha, chậm rãi trong dáng bơi, đĩnh đạc hoặc trong tư thế nên tạo nét phúc hậu thần tiên.
Rất khó phân biệt được giới tính của cá Ông Tiên. Người ta chỉ biết được một điều là giữa cá trống và cá mái khác nhau ở khoảng cách ở giữa vi bụng và vi hậu môn. Với cá mái thì khoảng cách này rộng hơn một chút. Cá mái khi trứng già thì bụng to, bơi chậm chạp. Lúc này cá trống nối đuôi theo cá mái để ve vẽn. Nhờ vào sự … tình tự này của chúng mà ta mới bắt đúng cặp trống mái ra nuôi riêng để cho sinh sản.
Hồ kiếng dành riêng cho cá Ông Tiên đẻ không nên nhỏ quá, ít ra cũng phải có dung tích chứa được năm sáu chục lít nước. Trong hồ nên đặt một cụm rong, sao cho đầu rong còn khoảng 20 cm nữa mới vươn tới mặt nước hồ. Ta có thể thay thế rong bằng một cục gạch ống còn mới và sạch đặt dựng đứng dưới đáy hồ. Có người còn dùng tô hoặc chén để làm ổ đẻ cho cá. Điều cần làm là bên trên cái vật để làm ổ đẻ cho cá. Phải cách xa mặt nước hồ khoảng 10 cm hoặc hơn để cá trống mái có chỗ mà lượn qua lượn lại…
Khi phát hiện ổ đẻ do chủ nuôi đặt vào hồ, cặp cá trống mái liền kè nhau đến gần và quấn quít bên nhau một lúc. Trước hết cá trống rưới lên một chất nhờn lên rong hoặc gạch ống (hoặc tô, chén), sau đó cá mái đẻ trứng lên chất nhờn đó…
Mỗi lứa, cá Ông Tiên có thể đẻ được vài trăm trứng đến cả ngàn trứng. Lứa đầu cá đẻ ít, nhưng những lần sau số trứng mỗi lứa mỗi tăng thêm….
Cá bố mẹ canh giữ ổ trứng. Thỉnh thoảng chúng làm đảo trứng và những trứng nào rơi xuống đáy hồ đều được cá trống siêng năng nhặt lên để lại ổ. Độ hai ngày sau thì trứng nở. Cá Ông Tiên con mới nở rất nhỏ và yếu. Chúng sống bám vào ổ, sau ba bốn ngày mới chịu rời khỏi để đi kiếm ăn.
Cá Ông Tiên đẻ sai, nhưng cá bố mẹ thích ăn dần con của chúng. Vì vậy, khi bầy cá con nở xong, liền bắt cá cha mẹ ra nuôi riêng, hoặc là dời ổ trứng sang một hồ khác
Khoảng ba bốn ngày tuổi, cá con đã biết ăn mồi. Chúng ăn được bo bo, bột trứng hoặc Biscotte (bột gạo rang vàng trộn với lòng đỏ trứng phơi khô). Từ mười ngày tuổi cá con đã ăn được lăng quăng…
Trong thời gian trứng chưa nở và đến khi ra cá con, hồ cá phải được cung cấp dưỡng khí thường xuyên để trứng nở đều và cá con mới mau lớn. Khoảng hai tháng tuổi, cá Ông Tiên con coi như đã trưởng thành.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Giới Thiệu Chung Về Cá Tầm trên website Nhahangchacangon.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!