Cập nhật nội dung chi tiết về Bệnh Thường Gặp Ở Cá Rồng Và Cách Chữa Trị mới nhất trên website Nhahangchacangon.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Triệu chứng & Nguyên nhân
Cách chữa trị
Bệnh xoăn mang (kênh mang)
Triệu chứng: Trong giai đoạn đầu thì cá thở gấp, mang mở đóng không êm ái. Về sau lớp viền mang cá mở rộng, phơi bày những những cơ cấu ở trong mang. Lâu dần lớp vỏ cứng của mang cũng kênh ra. Việc này làm cho con cá khó thở nên kém ăn và quan trọng là con cá trở nên xấu, mất giá trị.
Nguyên Nhân: thiếu chăm sóc, nhiễm bẩn và ký sinh là những nguyên nhân chính.Việc không thay nước thường xuyên khiến cho lượng nitrat, amôniắc trong nước tăng cao, lượng oxy giảm nên dẫn tới việc thở của con cá khó khăn. Một số loại vi khuẩn ký sinh trong mang khiến cho các cơ cấu mang bị viêm và đẩy vỏ mang phình lên
Môi trường: Không gian trong bể phải đủ cho con cá (tối thiểu là khi cá trưởng thành, chiều dài của bể phải gấp 3 chiều dài cá, chiều rộng, chiều cao = chiều dài cá) và máy lọc hoạt động tốt.
Khi cá thở bất thường: thì nên thay 20% nước bể mỗi ngày. Tăng cường sủi khí, nếu cần thiết có thể dùng bình oxy bơm vào bể và có gắng duy trì PH là 6,5, duy trì 2 lạng muối/100 lít nước.
Khi cá bị xoăn nhẹ: dùng lá bàng khô ngâm nước rồi lấy nước đó đổ vào bể và lớp xoăn sẽ giảm rất nhiều.Khi bị xoăn lớp mỏng viền mang: thì có thể cắt bỏ phần xoăn rồi chăm sóc với chế độ giàu oxy.
Mang cá kênh ra phần vỏ cứng: rất khó để khắc phục.
Bệnh xù vẩy
Triệu chứng: các hàng vẩy bị kênh lên (phần lớn ở lưng). Trường hợp nặng thì toàn bộ vẩy trên người bị kênh, hai mắt hơi lồi ra. Lúc đó cá bỏ ăn và hay oằn mình.
Nguyên nhân: Bệnh chủ yếu là do nấm và sự thay đổi quá đột ngột của môi trường, nước quá bẩn và nghèo oxy.
Bệnh này thường xảy ra ở những cá nhỏ và cá yếu, hay xuất hiện vào mùa thu và đông.
Phát hiện & xử lý sớm để đạt hiệu quả tốt. Đầu tiên là cố gắng duy trì nhiệt độ nước 30-31 độ C, tăng cường lượng muối trong bể, bổ xung thuốc bột vàng của Nhật.
Một ngày có thể thay nước 2 lần nhưng lượng nước thêm vào và bớt ra thật ít. Trong những ngày đầu trị bệnh không nên cho cá ăn và những ngày sau cho ăn hạn chế.
Nếu cá bị nhẹ thì chỉ 2 ngày là hết những vẫn phải duy trì nhiệt độ và thay nước trong 1 tuần. Nếu để bị nặng quá thì khả năng chết cao.
Bệnh xụp mắt
Theo nghiên cứu thì khả năng xụp mắt do di truyền chiếm tới 60%.
Cá trẻ đang trưởng thành khả năng bị xụp mắt rất cao vì còn một số nguyên nhân khác như cách cho ăn (thả nhiều mồi xuống bể một lúc nên tạo cho cá thói quen ăn chìm nên cá đói hay nhìn xuống đáy), ăn quá nhiều (tạo ra lớp mỡ dưới tròng mắt nhiều, đẩy trong ra ngoài), xung quanh bể ở tầng thấp có quá nhiều vật chuyển động (đặt lồng chim, chó, mèo…) nên tạo thói quen quan sát ở thấp…
Phòng bệnh: thả vật nổi trên mặt nước (có thể là bóng bàn nhiều mầu), lúc cá bé thì tạo thói quen ăn mồi nổi (như gián, châu chấu, thạch thùng, dế…) với số lượng hạn chế. Vớt mồi còn sót nếu cá không ăn. Nếu cá rồng có giá trị cao như kim hồng vĩ, hồng long thì chỉ nên nuôi một mình 1 bể và đáy bể dán kín. Còn nếu nuôi chung thì tránh nuôi một số loại cá ăn chìm như sam, vịt, lau bể…
Bệnh mờ mắt
Nguyên nhân do nước không được thay thường xuyên, lượng amôniắc và nitrat quá nhiều. Vi khuẩn gây là bệnh có hình nón bám vào tròng mắt làm viêm, tạo ra một lớp quầng mầu trắng phủ lấy trong mắt. Nếu không được chữa trị cá sẽ bị hỏng mắt hoàn toàn.
Chữa trị: tăng lượng muối trong bể, giữ nhiệt độ nước khoảng 29-32 độ. Có thể dùng tetraxilin hay metronidazone với liều lượng 500mg/50lit nước. Duy trì thay nước đều đặn 1 lần/ngày mỗi lần 1/4 lượng nước trong bể.
Bệnh trướng bụng / Sình bụng
Triệu chứng: cá bỏ ăn, bụng to hơn bình thường, bơi lội khó khăn, sau khi bài tiết phân dính sợi trắng ở hậu môn.
Nặng hơn nữa thì ở hậu môn chảy ra nước nhờn.
Nguyên nhân: do ăn uống, không phải lúc nào thức ăn cũng đạt tiêu chuẩn nên gây ra không tiêu và viêm ruột. Một số cá rồng bị viêm ruột mãn tính nên hậu môn đỏ và lòi ra (lòi trĩ).
Phòng bệnh: tránh cho cá ăn quá no. Cho ăn tôm thì nên bóc cả đầu và râu vì đầu tôm có 1 cây kiếm có thể đâm thủng ruột cá. Cho ăn dế, gián, châu chấu thì nên ngắt bỏ càng và chân tránh bị hóc. Cho ăn động vật thì phải còn sống, tránh cho ăn động vật chết. Nếu ăn thức ăn đông lạnh thì phải rã đá kỹ.
Chữa bệnh: thay 1/3 lượng nước, tăng cường sục, tăng muối và duy trì nhiệt độ ở 30 độ C và có thể thêm một lượng metronidazol rồi theo dõi.
Bệnh đốm trắng
Link ảnh
Triệu chứng: Nước trong bề hơi đục và có mùi tanh nồng. Cá bơi lội hay giật mình, chà xát người vào thành bể, bỏ ăn… trường hợp nặng thì trên thân, nhất là trên vây, đuôi xuất hiện những đốm trắng và phát triển rất nhanh. Nếu không chữa kịp thời để bệnh chuyển sang giai đoạn nặng thì cá sẽ chết.
Nguyên nhân: Những đốm trắng là một dạng nấm, bám trên thân cá và hút chất lỏng trên thân thể cá làm cho cá khó chịu. Loại nấm này phát triển rất nhanh ở 25oC.
Mới bệnh: thấy cá bị bệnh nên tăng nhiệt độ (khoảng 32oC), trong trường hợp nhẹ thì cá tự khỏi.
Bệnh nặng: phải thay nước liên tục với số lượng ít một, bổ xung muối ăn. Nên dùng một số thuốc ở hàng cá và phải chữa khỏi dứt điểm, tránh để bệnh kéo dài.
Bệnh đốm trắng – White Spot
Link ảnh
Nguyên nhân: Nổi đốm trắng như các nốt mụn, gây ra bởi một loại ky sinh trùng. Ký sinh trùng này chu kỳ phát triển có hai giai đoạn là sống trên cơ thể cá, hút máu và sau đó sẽ rời cơ thể cá để đẻ trứng dưới đáy bể, sau khi nở, những con ký sinh trùng lại tiếp tục tìm nạn nhân của chúng . Chu kỳ của chúng tùy theo nhiệt độ của bể, ở nhiêt độ của cá rồng, chúng sẽ có chu kỳ là 48-72, yếu nhất lúc mới nở,
Tăng nhiệt độ bể lên 32-33 độ C.
Cho thuốc theo hàm lượng cho sẵn trên lọ thuốc mỗi 2-3 ngày thay 20-25% nước của bể, thêm nước mới và bổ sung thuốc theo đúng hàm lượng.
Quá trình trị liệu sẽ là 10- 14 ngày, nên ngâm thêm vài ngày để trị hết bệnh.
Trong quá trình chữa bệnh nên bỏ than hoạt tính ra khỏi hệ thống lọc
Bị ký sinh trùng bám (Trùng mỏ neo, rận cá,…)
Link ảnh
Trùng gây bệnh có tên Lernaea, có dạng giống mỏ neo, cơ thể có chiều dài 8-16mm, giống như cái que, đầu có mấu 16mm, giống mỏ neo cắm sâu vào cơ thể cá.Triệu chứng: Cá nhiễm bệnh kém ăn, gầy yếu, chung quanh các chỗ trùng bám viên và xuất huyết. Nơi trùng mỏ neo bám là điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập và phát triển. Đối với cá lớn, trùng mỏ neo làm thành vết thương tạo điều kiện cho các tác nhân khác gây bệnh như: nấm, ký sinh trùng, vi khuẩn,… xâm nhập. Trùng thường ký sinh ở da, mang, vây, mắt, … trên các loài cá.
Cách 1: Dùng thuốc số 0 cho cá rồng, đổ theo tỷ lệ 10l nước: 1ml thuốc. 2-3 ngày thay bớt nước rồi bổ sung thuốc cho đúng hàm lượng.
Cách 2: dùng thuốc tím 1-2,5g/100 lít nước tắm cá trong một giờ.
Cách 3: dùng Dipterex 5 g /100 lít, mỗi tuần 2 lần.
Bị stress
Link ảnh
Do trong bể cá có nhiều các loại cá nhỏ bơi nhanh hoạt động nhiều làm cá Rồng của bạn bị stress
Phòng bệnh: Nên nuôi trong không gian rộng rãi, tránh nuôi chung cùng cá nhỏ bơi nhanh.
Thay nước thì chỉ nên thay không quá 50% bể, tránh sock nước mới.
Cá di chuyển đường xa, mệt khi thả cá vào bể nên mở miệng túi từ từ để cá thích nghi môi trường mới
Thuốc bổ hỗ trợ cá.
VitaminNước đen
Một Số Bệnh Thường Gặp Ở Cá Rồng
+ Bệnh xoăn mang (kênh mang)
Đối với cá rồng việc thiếu chăm sóc, nhiễm bẩn và ký sinh là những nguyên nhân chính gây bệnh cho cá. Việc không thay nước thường xuyên khiến cho lượng nitrat, amôniắc trong nước tăng cao, lượng 02 giảm nên dẫn tới việc thở của con cá khó khăn, nhất là việc lượng cả trong bể dày đặc. Một số loại vi khuẩn ký sinh trong mang khiến cho các cơ cấu mang bị viêm và đẩy vỏ mang phình lên. Quan trọng không kém là không gian trong bể phải đủ cho con cá (tối thiểu là khi con cá trưởng thành thì chiều dài của bể phải gấp 3 chiều dài con cá, chiều rộng = chiều dài cá, chiều cao = chiều dài cá) và máy lọc hoạt động tốt.
Triệu chứng:
Trong giai đoạn đầu thì cá thở gấp, mang mở đóng không êm ái. Về sau lớp viền mang cá mở rộng, phơi bày những những cơ cấu ở trong mang. Về sau thì lớp vỏ cứng của mang cũng kênh ra. Việc này làm cho con cá khó thở nên kém ăn và quan trọng là con cá trở nên xấu, mất giá trị.
Nghiên cứu:
Khi thấy cá thở bất thường thì nên thay đổi 20% nước bể mỗi ngày. Tăng cường sủi khí, nếu cần thiết có thể dùng bình oxy bơm vào bể và có gắng duy trì PH là 6,5, duy trì 2 lạng muối/100 lít nước. Một số trường hợp cá bị xoăn nhẹ dùng lá bàng khô ngâm nước rồi lấy nước đó đổ vào bể và lớp xoăn giảm rất nhiều.Còn nếu cá bị xoăn lớp mỏng viền mang thì có thể dùng biện pháp cắt bỏ rồi chăm sóc với chế độ giàu oxy. Nếu mang cá kênh ra phần vỏ cứng thì chịu, không khắc phục được.
+ Bệnh xù vẩy:
Bệnh này thường xảy ra ở những cá nhỏ và cá yếu. Bệnh này thường hay xuất hiện vào mùa thu và đông.
Hiện tượng: các hàng vẩy bị kênh lên (phần lớn ở lưng). Trường hợp nặng thì toàn bộ vẩy trên người bị kênh, hai mắt hơi lồi ra. Lúc đó cá bỏ ăn và hay oằn mình.
Nguyên nhân: Bệnh chủ yếu là do nấm và sự thay đổi quá đột ngột của môi trường, nước quá bẩn và nghèo oxy.Với trường hợp thì xự phát hiện bệnh và xử lý càng sớm càng tốt. Đầu tiên là cố gắng duy trì nhiệt độ nước trong bể khoảng 30-31 độ C, tăng cường lượng muối trong bể, bổ xung thuốc bột vàng của Nhật. Một ngày có thể thay nước 2 lần nhưng lượng nước thêm vào và bớt ra thật ít. Trong những ngày đầu trị bệnh không nên cho cá ăn và những ngày sau cho ăn hạn chế. Nếu cá bị nhẹ thì chỉ 2 ngày là hết những vẫn phải duy trì nhiệt độ và thay nước trong 1 tuần. Nếu để bị nặng quá thì khả năng chết cao.
+ Bệnh xụp mắt
Thực ra xụp mắt cũng không phải là bệnh mà là tình trạng đặc trưng của cá rồng. Theo một số thông tin ở nước ngoài thì khả năng xụp mắt do di truyền chiếm tới 60%. Cá trẻ đang trưởng thành khả năng bị xụp mắt rất cao vì còn một số nguyên nhân khác như cách cho ăn (thả nhiều mồi xuống bể một lúc nên tạo cho cá thói quen ăn chìm nên cá đói hay nhìn xuống đáy), ăn quá nhiều (tạo ra lớp mỡ dưới tròng mắt nhiều, đẩy trong ra ngoài), xung quanh bể ở tầng thấp có quá nhiều vật chuyển động (đặt lồng chim, chó, mèo…) nên tạo thói quen quan sát ở thấp… Có một số phương pháp làm ngăn chặn như sau: thả vật nổi trên mặt nước (có thể là bóng bàn nhiều mầu), lúc cá bé thì tạo thói quen ăn mồi nổi (như gián, châu chấu, thạch thùng, dế…) với số lượng hạn chế. Vớt mồi còn sót nếu cá không ăn. Nếu cá rồng có giá trị cao như kim hồng vĩ, hồng long thì chỉ nên nuôi một mình 1 bể và đáy bể dán kín. Còn nếu nuôi chung thì tránh nuôi một số loại cá ăn chìm như sam, vịt, lau bể… Nói chung các phương pháp này chỉ nhằm mục đích không cá bị xụp mắt sớm thôi còn nuôi lâu thì gần như con nào cũng bị xụp mắt. Quan trọng nhất là khi mua cá phải chọn cá mắt phải đẹp, vì khi xụp rồi dù ít hay nhiều đều không chữa được
+ Bệnh mờ mắt
Bệnh này khá phổ biến ở nhiều loại cá. Với cá rồng thì từ to đến bé đều có khả năng bị. Nguyên nhân chủ yếu cũng là do nước không được thay thường xuyên, lượng amôniắc và nitrat quá nhiều. Vi khuẩn gây là bệnh có hình nón bám vào tròng mắt làm viêm, tạo ra một lớp quầng mầu trắng phủ lấy trong mắt. Nếu không được chữa trị cá sẽ bị hỏng mắt hoàn toàn.
Bệnh này rất dễ chữa nếu phát hiện sớm. Ta tăng lượng muối trong bể, giữ nhiệt độ nước khoảng 29-32 độ. Có thể dùng tetraxilin hay metronidazone với liều lượng 500mg/50lit nước. Duy trì thay nước đều đặn 1 lần/ngày mỗi lần 1/4 lượng nước trong bể.
+ Bệnh trướng bụng
Hiện tượng: cá bỏ ăn, bụng to hơn bình thường, bơi lội khó khăn, có trường hợp nặng thì chổng đầu hoặc đuôi lên trời (gọi chung là trồng cây chuối). Nặng hơn nữa thì ở hậu môn chảy ra nước nhờn.
Nguyên nhân của bệnh này chủ yếu là do ăn uống. Vì vậy nên tránh cho cá ăn quá no vì không phải lúc nào thức ăn cũng đạt tiêu chuẩn gây ra không tiêu và viêm ruột. Nếu cho ăn tôm thì nên bóc cả đầu và râu trước khi cho vào bể vì đầu tôm có 1 cây kiếm có thể đâm thủng ruột cá. Nếu cho ăn dế, gián, châu chấu thì nên ngắt bỏ càng và chân tránh hiện tượng hóc. Nếu cho cá rồng ăn động vật thì phải còn sống, tránh cho ăn động vật chết. Nếu ăn thức ăn đông lạnh thì phải rã đá kỹ. Một số cá rồng bị viêm ruột mãn tính nên hậu môn đỏ và lòi ra (lòi trĩ).
Bệnh này rất khó chữa, khả năng chết cực cao. Vậy nếu thấy cá bỏ ăn, bụng hơi to, hay oằn mình thì nên thay 1/3 lượng nước, tăng cường bơm hơi, tăng lượng muối và duy trì nhiệt độ ở 30 độ C và có thể thêm một lượng metronidazol rồi theo dõi.
+ Bệnh đốm trắng
Vốn dĩ bệnh này rất chung cho mọi loại cá. Trên thân, nhất là trên vây, đuôi xuất hiện những đốm trắng và phát triển rất nhanh.
Hiện tượng: Nước trong bề hơi đục và có mùi tanh nồng. Cá bơi lội hay giật mình, chà xát người vào thành bể, bỏ ăn… trường hợp nặng thì trên vây cá có những điểm trắng như những u nang, gây ra cụt vây. Nếu không chữa kịp thời để bệnh chuyển sang giai đoạn nặng thì cá sẽ chết.
Những đốm trắng là một dạng nấm, bám trên thân cá và hút chất lỏng trên thân thể cá làm cho cá khó chịu. Loại nấm này phát triển rất nhanh ở 25oC. Vì vậy khi thấy cá bị bệnh nên tăng nhiệt độ (khoảng 32oC), trong trường hợp nhẹ thì cá tự khỏi. Nếu nặng thì ta phải thay nước liên tục với số lượng ít một, bổ xung muối ăn. Nên dùng một số thuốc ở hàng cá và phải chữa khỏi dứt điểm, tránh để bệnh kéo dài.
+ Hóc dị vật
Tình huống: Cá Rồng là loài cá phàm ăn, mồm rộng. Trong trường hợp để cá đói mà trong bể bất ngờ xuất hiện dị vật (như núm cao su của máy lọc, máy sưởi, nhiệt kế, bông lọc… bị rơi ra; thậm chí là tóp thuốc lá rớt vào bể…) có thể cá Rồng sẽ nuốt phải. Thường thì khi thấy không nhá được, chúng sẽ nhả ra ngay, nhưng cũng không loại trừ dị vật bị nuốt cùng thức ăn.
Cách chữa: May mắn, nếu dị vật nhỏ cá tiêu hóa được hoặc nôn ngược ra được thì đỡ phải can thiệp; Trường hợp ngược lại, cá sẽ ngúc ngoắc đầu liêu tục, thở khó khăn (mồm ngáp nước, mang hô hấp mạnh). Lúc này cần tìm mọi biện pháp tăng cường ngay ôxy cho cá, sau nửa giờ ép cá vào thành bể, nhẹ hàng dùng tay trái đỡ dưới cằm cá (phải coi chừng làm gẫy 2 vây bơi) tay phải lùa vào mồm cá, tách hàm dưới xuống (nhớ là hàm dưới, bác nào cố kéo hàm trên- gẫy, ráng chịu) để kiểm tra và móc dị vật ra cho cá.
Sưu tầm
Nguyên Khang Chưa xác định sản phẩm bán chạy, tiêu điểm.
HTML source
Các Bệnh Thường Gặp Ở Cá
Bệnh ở cá cảnh có nhiều dạng khác nhau , sau đây là tổng hợp các loại bệnh mà hay gặp phải khi nuôi cá cảnh trong hồ nhà bạn
Ai đam mê chơi cá cảnh rất mong muốn cho đàn cá của mình luôn mạnh khỏe nhưng cá cảnh cung thường hay mắc Các bệnh thông thường nhất có thể tác hại đến cá trong bể nuôi có thể do ký sinh vật xâm nhập vào bể đồng thời với thức ăn sống hay cây trồng lấy từ nước bẩn ở nơi khác, hoặc là nhiễm khuẩn do mốc hoặc môi trường sống chung quanh thiếu vệ sinh và cũng do sự thiếu săn sóc của con người. sau đây thủy sinh asin sẽ chia sẽ những bệnh mà những đàn cá của chúng ta thường hay mác phải
1. Bệnh đốm trắng.
Cơ thể của cá phủ đầy những nốt nhỏ màu trắng mọc khắp mình cá và lan truyền ra cả vây rất nhanh nên chúng ta cần chú ý và trị bệnh ngay cho cá . Sự nhiễm bệnh theo chu kỳ. Ký sinh vật ichthyophthirius multifilius sẽ rời cơ thể cá tạo màng để làm thành nang nhớt rơi xuống đáy của bể. Trong nang này, ký sinh vật tiềm sinh vẫn phân chia và tạo ra nhiều cá thể con. Đến lúc màng ngoài của nang nứt ra, các cá thể con thoát ra, bơi lội tự do đi tìm một vật chủ khác. Có thể diệt chúng vào giai đoạn này bằng phương pháp thích hợp. Vì bệnh có thể lây cho cá khác trong bể, do đó phải điều trị toàn bể nuôi. Người ta đã tìm được thuốc chữa bệnh này. Cũng có thể điều trị bằng cánh nâng nhiệt độ nước lên 32-35 độ C trong 4-6 ngày. Pha vào trong nước thuốc tím theo tỷ lệ 1g cho 1 lít nước.nếu trong hồ thủy sinh thực vật các bạn có thể dung tetra muối hột ít bonsoi sau 3 ngày thay nước cá sẽ bớt bệnh
bệnh nấm trắng
bệnh nấm trắng khi bị nặng
2. Bệnh nấm mốc nước.
Bệnh này gây ra bởi các loài nấm thủy mi hay mốc nước Saprolegnia, một loại phát ban dạng túm như là bông xuất hiện trên cơ thể của cá, có khi được phủ một màng mỏng nấm dạng sợi hay bột. Cách điều trị có hiệu quả là ngâm cá trong một chậu nước tắm mặn. Người ta hòa tan muối tự nhiên trong nước ngọt. Nồng độ cho một lần ngâm như vậy với thời gian ngắn (từ 15-30 phút) là 15-30g trong một lít. Muốn điều trị dài ngày, cần dùng 7g/lít. Có một số phép chữa đặc biệt khác.
bệnh nấm
3. Nấm thân, nấm miệng.
bệnh nấm miệng
4. Bệnh rung.
Khi mô tả về các triệu chứng của bệnh này, chỉ có thể nói là cá bị bệnh thực hiện những chuyển động uốn lượn rất nhanh tại chỗ mà không nhích lên được một centimet nào cả. Có người gọi là bệnh vặn mình. Một trong những nguyên nhân của rối loạn này do sự hạ thấp nhiệt độ của nước, gây ra cho cá sự nhiễm lạnh. Cách trị là hiệu chỉnh lại hệ thống tạo nhiệt lượng cho bể nuôi và đưa nhiệt độ trở về mức đúng cho nhu cầu của cá.
bệnh rung
5. Bệnh phù.
Cơ thể của cá phù lên ở một điểm kéo theo sự xù lên của các vảy. Nguyên nhân là do sự tích tụ của chất lỏng trong khoang bụng nhưng chưa rõ đúng là do cái gì gây nên. Phần đông các nhà nuôi cá gọi một cách không chắc chắn là bệnh phù thũng. Khó có thuốc điều trị đặc hiệu, nhưng cũng có thể tiến hành rút nước thừa trong cơ thể cá bằng một ống tiêm dưới da. Nhưng bệnh này có thể lây, nên tốt nhất là bắt riêng cá bệnh cho tới khi có dấu hiệu khỏi bệnh mới cho cá vào bể nuôi.
bệnh phù
6. Bệnh thối vây, đuôi.
Sự thoái hóa của các mô nằm giữa các tia của vây do sự nhiễm khuẩn thường xảy ra dễ dàng hơn nếu phẩm chất của nước xấu. Vây cá cũng có thể bị thiệt hại do những khi bắt cá bằng tay không khéo léo hoặc do các cá khác cắn vây, khiến cho sự nhiễm khuẩn có chỗ phát sinh trên những phần bị thương. Để điều trị, phải làm sao cho nước được hoàn toàn trong sạch, luôn luôn xem xét đến các điều kiện bảo quản và vận hành của bể. Nếu bệnh phá hoại ở phần đuôi của cá, sự trị bệnh rất tốn kém. Có thể dùng các cách điều trị trên cơ sở của Acriflavin và của Phenoxethol thay cho các phương pháp phẫu thuật.
bệnh thối rữa
7. Bệnh giun hay gyrodactylite.
Người ta thấy có khi các cá bị bệnh gãi mình vào đá và cây cỏ, triệu chứng này thường kèm theo sự thở gấp của cá. Các mang há ra và có thể thấy bị sưng. Các cá này bị các loại giun nhỏ Dactylogyrus hay Gyrodactylus ký sinh; chúng bám và xâm nhập vào da và tập trung ở các màng mềm của mũi cá. Gyrodactylus làm cá yếu đi và làm biến màu cá. Chúng thường nằm phía ngoài bề mặt của cá. Có khi chúng xâm nhập vào mang của cá tạo ra bệnh giun ở mang. Người ta có thể loại trừ các loài giun này bằng cách cho cá tắm trong các dung dịch lỏng của xanh methylen, formol (pha loãng và tiến hành thận trọng vì là một chất độc) và aciflavin.
bệnh giun
8. Bệnh sình bụng Bệnh chướng bụng – Dropsy Mô tả: nếu nói một cách chính xác thì sình bụng là một triệu chứng chứ không phải là một bệnh. Cá bị sình bụng có phần bụng căng phồng. Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng này. Đôi khi, bệnh này không lây nhiễm nhưng cá bị bệnh nên được cách ly và điều trị thích hợp. Bụng cá căng đầy nước và không có khả năng đào thải. Bụng căng làm vẩy cá rộp lên trông giống như “quả thông”. Chẩn đoán: có nhiều nguyên nhân gây nên bệnh này: – Sình bụng cấp tính: tức bụng căng lên bất thình lình. Cá bị nhiễm khuẩn gây xuất huyết nội. – Sình bụng mãn tính: tức bụng căng lên từ từ. Ký sinh trùng hay bướu phát triển ở bụng cá có thể gây nên tình trạng này. – Sình bụng mãn tính: tức bụng căng lên từ từ. Cá bị bệnh lao cá Mycobacterium tuberculosis. Bệnh này lây rất mạnh. – Những nguyên nhân khác gồm nhiễm virus, tổn thương nội tạng, suy thận vì sử dụng quá nhiều thuốc hay thuốc quá mạnh. Chữa trị: bệnh này rất khó chữa trị nhưng nếu nguyên nhân là vi khuẩn và được phát hiện sớm thì có thể chữa khỏi. Vì vậy cần phải tìm hiểu xem có phải bệnh do vi khuẩn gây ra hay không, việc phát hiện nguyên nhân gây bệnh là một phần của điều trị và phòng bệnh. Khi các vẩy xù lên chứng tỏ cá bị bệnh trầm trọng. Ngâm cá trong nước muối có thể giúp tiêu bớt chất lỏng trong mình cá. Có một loạt các loại thuốc dùng để chữa bệnh sình bụng do nhiễm khuẩn nội tạng. Các loại thuốc chữa bệnh ngoài da không có tác dụng trong trường hợp này. Cá sặc và cá chép rất dễ bị mắc bệnh sình bụng.
bệnh sình bụng
9. Bệnh sưng mắt Bệnh sưng mắt Pop Eye – Exophthalmus, Corneybacteriosis Mô tả: sưng mắt vốn không phải là một bệnh mà là một triệu chứng gây ra bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau như nhiễm khuẩn (và có thể nhiễm thêm cả nấm), môi trường (chẳng hạn như nước dơ) hay vết thương sưng tấy ở mắt vì bị cá khác cắn. Cá có thể bị sưng tấy một mắt hay cả hai. Con ngươi lòi hẳn ra khỏi hốc mắt và đôi khi bị mờ đục.
bệnh sưng mắt
Chữa trị: nếu chỉ có một mắt bị sưng thì nguyên nhân thường là vì bị thương và mắt phản ứng bằng cách sưng lên và dồn chất lỏng về đó. Cần cách ly cá và thay nước thường xuyên để mắt có thời gian tự phục hồi. Có thể chữa trị bằng muối epsom tức muối MgSO4 ngậm nước (1 muỗn trà/ 20 lít, sau 3 ngày giảm còn nửa muỗng). Nếu cả hai mắt đều bị sưng thì có lẽ cá bị nhiễm khuẩn và nên điều trị bằng Maracyn, Penicillin hay Tetracycline. Có thể sử dụng kháng sinh Neomycin sulphate (250 mg/ 4 lít) với tầm tác dụng rộng trên các vi khuẩn gram+ và gram- . Bạn cũng có thể dùng những loại kháng sinh khác. Nhưng nếu cá bị quá nặng thì rất khó chữa trị. Có thể cho cá ăn thức ăn có trộn thuốc (vì kháng sinh rất khó thẩm thấu vào cơ thể cá). Chỉ nên dùng kháng sinh trong hồ điều trị để tránh ảnh hưởng đến bộ lọc ở hồ chính. – Xanh methylen pha loãng 1%. Ngâm lâu cá trong dung dịch 0,4-0,8cc mỗi lít. – Acriflavin pha loãng 10/mg/lít. Ngâm lâu, dùng 2,2cc mỗi lít. – Formol. Đậm đặc formaldehyd 47%. Ngâm ngắn (45-50 phút) 0,25cc mỗi lít, hoặc ngâm lâu 0,066cc mỗi lít. Cần chú ý là độ đậm đặc của các sản phẩm thích hợp thay đổi tùy theo từng nơi, từng khu vực khác nhau. Các loài ký sinh không thể sống nếu không có vật chủ. Nếu ta lấy hết cá bệnh ra để điều trị một thời gian bằng xanh metylen, thì các loài ký sinh tự nó cũng bị huỷ diệt nếu không còn có vật chủ. Cũng có trường hợp cá phập phồng bơi ở mặt nước không hẳn là cá đã nhiễm bệnh ký sinh. Có thể chúng đi tìm oxy để thở trong trường hợp bể nuôi dư thừa cacbonic. Trong trường hợp này, ta tăng cường không khí để có đủ oxy cho cá hô hấp, nhưng cách giải quyết tốt nhất là phải tổ chức tốt bể nuôi. Người ta còn kể đến một số bệnh khác như: – Nang bạch huyết. Gây ra những chỗ lồi dạng cải bông (súp lơ) trên vảy và trên da cá, đồng thời làm giảm trọng lượng của cá. Bệnh có thể phát triển nhanh chóng. Thường ít gặp trong bể nuôi cá nước ngọt. – Mụn: Những đốm trắng kết liền lại với nhau tạo thành mảng lớn. Cá có vẻ hốc hác và xoắn lại. Nguyên nhân có thể do chế độ thức ăn không cân đối, thiếu vitamin. – Da nhớt. Một màng mỏng xám bao phủ thân cá. Do bị các vật ký sinh Cyclochacta và Costia gây ra sự tiết dịch nhớt. – Viêm mắt: Mắt cá bị mờ đục do một loại nấm gây ra hoặc là bệnh đục nhãn mắt có nguồn gốc ký sinh (Proalaria). Các mắt có u lồi có thể do một bệnh khác. – Bệnh nấm Oodinium Trên cơ thể cá thể hiện những lớp như bột. Đó là do nhiễm nấm Oodinium. Cách điều trị cũng tương tự như bệnh đốm trắng. Các bệnh nặng: Các bệnh nhiễm bệnh nặng hơn có thể do những nguyên nhân bên trong, ví dụ như bệnh lao hay sự có mặt của giun dẹp Nematodes hay Cestodes mà ta không thấy được bằng mắt thường. Thông thường khi các triệu chứng đã xuất hiện, thật đã quá muộn để thực hiện một cách điều trị nào cho có hiệu quả. Để xác định đúng, cần tiến hành phân tích các cơ quan của cá bị chết.
Nói chung ai chơi cá cũng mong con cá của mình luôn khỏe mạnh và đẹp chúng ta phải chú ý rất nhiều yếu tố quan trọng nhất vầ là con giống, nguồng nước và cách chăm sóc bảo dưỡng hồ cá định kì của người chơi. Khi cá có hiện tượng lạ thất thường người chơi nên xem sét kỉ thật bình tĩnh chuẩn đoán đúng bệnh nếu người chơi mất bình tĩnh chuẩn đoán sai sẽ làm cho cá bị bệnh càng nghiêm trọng hơn
Bước đầu tiên trong việc chẩn đoán bệnh đó là theo dõi cách thức chăm sóc và cho cá ăn. Những điều này thường gây cho cá các vấn đề về sức khoẻ: – Giữ nước sạch, thay nước thường xuyên. - Luôn khử clor trong nước máy hay để cho hả trước khi sử dụng. – Lọ nuôi cá càng lớn càng tốt. – Giữ nhiệt độ nước trên 21 độ C. – Nước dùng để thay nên có cùng nhiệt độ với nước cũ (để tránh làm cá bị sốc).
Nên sử dụng thuốc kháng sinh đúng cách để ngăn cản sự hình thành của dòng vi khuẩn kháng thuốc do sử dụng không đủ liều lượng. Năm ngày là khoảng thời gian điều trị tối thiểu bằng thuốc kháng sinh, kéo dài hơn một tuần thì càng tốt. – Nếu bạn không xác định được nguyên nhân gây bệnh, hãy cách ly cá trong hồ điều trị riêng (và thay nước mỗi ngày) để có thời gian theo dõi. Việc này không làm cá khoẻ lên nhưng chắc chắn không làm tình trạng của cá tệ đi. – Sau khi bạn đã xác định được nguyên nhân gây bệnh, bạn có thể chữa trị cho cá theo đúng phương pháp.
huốc kháng sinh Một số điều cần lưu ý: – Các sản phẩm của hãng Mardel không ảnh hưởng đến chức năng lọc sinh học. – Nên sử dụng thuốc kháng sinh một cách thích hợp: không nên ngừng điều trị sớm hơn năm ngày, tốt nhất nên kéo dài trên bảy ngày. – Một số sinh vật đặc biệt mẫn cảm đối với những loại thuốc nhất định vì vậy nên kiểm tra kỹ trước khi sử dụng. Chẳng hạn, các loài cá da trơn như cá nheo, động vật thân mềm/ốc, cá con và cây thuỷ sinh. – Bởi vì hầu hết các loại thuốc kháng sinh tiêu diệt vi khuẩn gram âm và vi khuẩn phân huỷ ni-tơ trong hồ cá cũng thuộc loại gram âm nên tốt hơn hết là bắt cá đi điều trị ở hồ riêng thay vì chữa trị cho toàn hồ nuôi. – Không may, việc sử dụng chỉ một loại kháng sinh đôi khi chưa đủ vì một số vi khuẩn có khả năng kháng một số loại thuốc nhất định, một số lại đột biến và chỉ bị tiêu diệt khi dùng kháng sinh liều cao. Thông thường, chúng ta không thể xác định được cá bị nhiễm vi khuẩn cụ thể nào hay chúng cũng có thể nhiễm nhiều loại một lúc! Nếu thấy trong vài ngày mà bệnh không thuyên giảm thì hãy thay loại thuốc khác. Hay cũng có thể sử dụng các loại kháng sinh phổ rộng mà chúng tiêu diệt cả vi khuẩn gram âm lẫn gram dương, chẳng hạn như các loại thuốc neomycin, chloramphenicol, thuốc chứa biệt dược nitrofurazone, thuốc kháng sinh thẩm thấu qua da chứa biệt dược kanamycin sulfate như Kanacyn/K-Mycin hay tetracycline. Những loại thuốc như Spectrogram (hãng Aquatronics) là kháng sinh tổng hợp nitrofurazone và kanamycin phổ cực rộng chuyên sử dụng cho mục đích trên. – Vi khuẩn gram dương thường không bị ảnh hưởng bởi tetracycline và streptomycin. – Vi khuẩn gram âm có thể không bị ảnh hưởng bởi ampicillin, penicillin, erythromycin và sulfa. – Một số vi khuẩn không bị tiêu diệt bởi liều thông thường nên phải tăng liều cao hơn. – Thuốc chứa sulfa hoàn toàn hiệu quả khi điều trị vi khuẩn gram âm. Các loại thuốc kháng sinh thông dụng dùng trong lãnh vực cá cảnh: Antibacterial (hãng Aquarium Pharmaceuticals). Bettamax (hãng Aquatronics): loại thuốc điều trị các chứng bệnh cá lờ đờ, bỏ ăn, rách vây, mất màu, thiếu vitamin, nhiễm khuẩn và nấm. Chỉ sử dụng cho cá nước ngọt. Đối tượng: cá betta, bảy mày và tất cả những loài cá có vây to. Thành phần: 250 mg nitrofurazone, methylene blue, pvp, vitamin, muối ăn, sulfa, methazine, diazine và merazine. Spectrogram: kháng sinh phổ cực rộng để điều trị bệnh đốm đỏ, xuất huyết, mất nhớt, xù vảy, bệnh nhiễm khuẩn, bệnh lở miệng và bệnh nấm. Dùng cho cá nươc ngọt và nước mặn. Không sử dụng cho động vật thân mềm. Nên dùng cho hồ điều trị và tắm cho cá. Thành phần: nitrofurazone, kanamycin. Maracyn (hãng Mardel): kháng sinh phổ rộng để điều trị vi khuẩn gram dương. Dùng điều trị bệnh thối vây, bệnh lở miệng, bệnh sưng mắt, bệnh ở mang và những bệnh viêm nhiễm cơ hội như bệnh nấm. Thành phần: Erythromycin. Maracyn-Two (hãng Mardel): kháng sinh phổ rộng để điều trị các bệnh nhiễm khuẩn gram âm cả bên ngoài và bên trong vì nó có khả năng thẩm thấu qua da. Điều trị hiệu quả các bệnh thối vây, sưng mắt, bệnh ở mang, bệnh sình bụng (bụng căng phồng, vảy xù lên), nhiễm trùng máu (vết xuất huyết hay lở loét trên thân), các bệnh nhiễm khuẩn nội và bệnh cơ hội. Hiệu quả ngay cả khi cá không ăn thức ăn trộn thuốc. Thành phần: Mincycline hydrochlor. Coppersafe (hãng Mardel): thuốc chứa hợp chất của đồng để điều trị các bệnh đốm trắng, sán lá, giun móc, nấm velvet, bệnh do khuẩn đơn bào và những bệnh ký sinh khác. Aquarisol (hãng Aquarium Products): thuốc nước chứa muối đồng để điều trị bệnh đốm trắng và những bệnh truyền nhiễm khác. Methylene Blue: chữa trị bệnh nấm rất hiệu quả. Chống lây nhiễm nấm cho trứng cá. Trị bệnh đốm trắng. Thuốc có thể ảnh hưởng đến chức năng lọc sinh học nên cá bị bệnh cần được cách ly và điều trị riêng nếu có thể. Có thể dùng thay thế cho Malachite Green đối với những loài cá mẫn cẩm với thuốc này. Malachite Green: dùng để điều trị các bệnh ký sinh và nấm ngoài da đối với cá và trứng cá, kể cả các bệnh nấm thuỷ mi và nấm Achlya. Clout (Aquarium Products): loại thuốc điều trị bệnh ký sinh và nhiễm khuẩn đơn bào rất công hiệu. Chữa trị các bệnh đốm trắng, thuỷ tức, đỉa bám, giun dẹp, các khuẩn đơn bào Epistylis, Trichodina, Hexamita và Tetrahymena, nấm, sán lá, ký sinh chân kiếm và giun móc. Maracide: chữa bệnh đốm trắng và những loại ký sinh thông dụng khác. TriSulfa: phòng và chữa trị các bệnh nhiễm khuẩn thông dụng. Maroxy: điều trị bệnh nấm và cả vi khuẩn. Kanacyn (Aquatronics): chữa trị các bệnh nhiễm khuẩn gram âm và dương bao gồm xuất huyết, sình bụng, thối vây, sưng mang, bong hay xù vảy, bệnh nấm, nhiễm khuẩn vibrio, lao cá (tuberculosis), mất sức và lở loét.
mong các bạn đọc xong bài này sẽ chăm sóc tốt hơn cho những đứa con tinh thần của mình
Các Bệnh Thường Gặp Ở Cá Biển
Quan sát sự di chuyển hay cách ăn uống của chúng sẽ giúp chúng ta phát hiện các dấu hiệu bất thường. Từ đó nếu thấy xuất hiện bệnh, lập tức có phương pháp cứu chữa kịp thời. Trước tiên, ta cần quan sát cách ăn uống của cá: Khi cho ăn, ta đếm số lượng cá, nếu con nào không chịu tập trung ăn, rời đàn đi riêng lẻ, lập tức theo dõi chặt chẽ hơn.
1. Bệnh đốm trắng
Triệu chứng:Cá ít di chuyển, đỡ đẫn, thường cọ thân mình vào cạnh bể. Trên mình nổi đầy những đốm trắng. Đây là bệnh lây nhiễm khá nguy hiểm.
Nguyên nhân:Do những con trùng roi hình ô van gây bệnh
Cách chữa:
* Thứ nhất là nâng nhiệt độ của nước lên 30 độ C, các ký sinh trùng gặp nhiệt độ cao sẽ bị tiêu diệt * Thứ hai đặt những viên gạch mới vào trong nước tiểu người, ngâm 24h, sau đó phơi khô rồi bỏ vào bể cá. Sau 10 tiếng, bệnh cá sẽ thuyên giảm trông thấy. * Thứ ba là ngâm cá bệnh trong nước ngọt với tỷ lệ 9 nước ngọt và 1 nước mặn, ngâm từ 1 đến 2 phút. Trong thời gian này, ta cần theo dõi khả năng thích ứng của cá. Nếu thấy cá thở gấp cần khẩn trương vớt cá về bể ngay. * Cuối cùng là đổ 10 kg nước biển vào bể (400lít), thêm 0,05g sunphát, tăng cường dưỡng khí, ngâm cá từ 5 đến 10 phút. rồi lại thay nước ngay. Sau 24h sẽ thấy bệnh giảm rõ rệt.
2. Bệnh rách vây, rách da
Triệu chứng:Các vẩy cá không lành lặn, những lá vẩy trên cơ thể cá rơi rụng, da cá thối rữa. Nguyên nhân là do chúng đánh nhau hoặc không thích ứng môi trường nước, dẫn đến tổn thương ngoài da.
Cách chữa trị:Cứ 10 lít nước ta bỏ vào 4 viên furazolidone, ngâm cá khoảng 10, 15 phút hoặc bỏ 0,2g thuốc tím ngam 10 phút, cá sẽ không bị nhiễm trùng, vết thương kín miệng và bệnh sẽ dần khỏi.
3. Bệnh rách mang
Triệu chứng:Mang của cá bị mất máu, tím tái và thối rữa. Nếu bệnh nặng thì những tua mang lở loét thành lỗ, lan sang quai hàm, việc hô hấp của cá lúc này rất khó khăn.
Cách chữa:
* Cách thứ nhất, cứ 10 lít nước mặn, ta bỏ vào 0,2 gam furacillin ngâm từ 5 đến 10 phút hoặc ngâm cá trong nước ngọt (9 phần nước ngọt và 1 phần nước mặn) * Cách thứ hai, ta cũng có thể ngâm cá trong nước có bỏ sunphát đồng như ở bệnh đốm trắng, sau 24 h bệnh của cá sẽ thuyên giảm đáng kể.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Bệnh Thường Gặp Ở Cá Rồng Và Cách Chữa Trị trên website Nhahangchacangon.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!